MỤC LỤC CỦA LUẬN VĂN
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU . 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI BỊ HẠI
TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ . 6
1.1. Khái niệm, đặc điểm người bị hại trong tố tụng hình sự. 6
1.1.1. Khái niệm. 6
1.1.2. Đặc điểm của người bị hại . 10
1.2. Phân loại người bị hại. 13
1.2.1. Căn cứ vào yếu tố chủ thể. 13
1.2.2. Căn cứ vào độ tuổi và sự phát triển về nhận thức . 14
1.2.3. Căn cứ vào các quyền tham gia tố tụng của người bị hại. 15
1.2.4. Căn cứ vào từng loại tội phạm. 15
1.2.5. Căn cứ vào thiệt hại. 16
1.3. Địa vị pháp lý của người bị hại trong pháp luật tố tụng hình sự. 16
1.3.1. Quyền của người bị hại trong tố tụng hình sự . 17
1.3.2. Nghĩa vụ của người bị hại. 23
1.4. Người bị hại trong luật tố tụng hình sự một số quốc gia
trên thế giới . 25
1.4.1. Người bị hại trong luật tố tụng hình sự Liên bang Nga . 25
1.4.2. Người bị hại trong luật tố tụng hình sự Cộng hòa liên bang Đức . 29
1.4.3. Người bị hại trong luật tố tụng hình sự Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa . 31
Tiểu kết chương 1. 32
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG VIỆT NAM
VỀ NGƯỜI BỊ HẠI VÀ THỰC TRẠNG THỰC HIỆN QUY
ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ HIỆN HÀNH
VỀ NGƯỜI BỊ HẠI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ TẠI
TỈNH THÁI NGUYÊN . 33
2.1. Lịch sử quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
về người bị hại . 33
2.1.1. Thời kỳ Pháp thuộc. 33
2.1.2. Thời kỳ từ năm 1945 đến trước năm 1988 . 362
2.1.3. Thời kỳ từ năm 1988 đến trước năm 2003 . 38
2.1.4. Thời kỳ từ năm 2003 đến nay. 39
2.2. Thực trạng thực hiện quy định của pháp luật tố tụng hình
sự hiện hành về người bị hại tại tỉnh Thái Nguyên . 49
2.2.1. Tình hình thụ lý, giải quyết các vụ án hình sự của Toà án hai
cấp tỉnh Thái Nguyên trong những năm gần đây . 49
2.2.2. Thực tiễn áp dụng quy định người bị hại trong pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên. 51
2.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong việc thực hiện quy
định về người bị hại theo Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam
từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên . 60
2.3.1. Nhận thức về quyền của người bị hại chưa đầy đủ . 60
2.3.2. Hệ thống quy phạm pháp luật về người bị hại chưa hoàn thiện. 62
2.3.3. Cơ chế bảo đảm quyền của người bị hại chưa hiệu quả. 63
Tiểu kết Chương 2 . 65
Chương 3: ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO THỰC HIỆN QUY
ĐỊNH VỀ NGƯỜI BỊ HẠI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ . 66
3.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật . 66
3.1.1. Kiến nghị Sửa đổi, bổ sung khái niệm người bị hại . 66
3.1.2. Kiến nghị bổ sung, sửa đổi khoản 2 Điều 51 Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2003 về một số quyền, nghĩa vụ cơ bản của người
bị hại. 67
3.1.3. Bổ sung quy định về quyền được trợ giúp pháp lý cho người bị hại. 72
3.2. Một số giải pháp khác. 73
3.2.1. Nâng cao nhận thức về quyền của người bị hại. 73
3.2.2. Thực hiện hiệu quả Thông tư 13/2013/TTLT-BCA-BQPVKSNDTC-TANDTC về bảo vệ người làm chứng, người bị hại,
người tố giác tội phạm . 73
3.2.3. Nâng cao trình độ pháp lý nghiệp vụ, ý thức trách nhiệm và
đạo đức nghề nghiệp của những người tiến hành tố tụng . 74
3.2.4. Xã hội hoá các biện pháp hỗ trợ người bị hại. 74
Tiểu kết Chương 3. 76
KẾT LUẬN . 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. 81
26 trang |
Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 546 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Người bị hại trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Thái Nguyên), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sử, luận văn triển khai một số phương pháp nghiên
cứu cụ thể như phương pháp: hệ thống, logic, phân tích, tổng hợp, so sánh,
khảo sát thực tế để chọn lọc tri thức khoa học, kinh nghiệm thực tiễn liên
quan đến những vấn đề người bị hại trong TTHS, từ đó làm sáng tỏ nội dung
của luận văn.
6. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Kế thừa những đề tài nghiên cứu về quyền của người bị hại trong Luật
TTHS trước đó, đề tài đưa ra những nghiên cứu mới về cơ sở lý luận, về
luật thực định, về các quy định của BLTTHS năm 2015 đối với địa vi pháp
lý của người bị hại cũng như những bất cập đang tồn tại trong thực tiễn áp
dụng tại tỉnh Thái Nguyên, và đưa ra một số giải pháp tương.
7. Cấu trúc của luận văn
Cấu trúc luận văn gồm ba phần: phần mở đầu, phần nội dung và phần
kết luận.
Phần nội dung gồm ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về người bị hại trong pháp luật TTHS
Chương 2: Quy định về người bị hại trong pháp luật TTHS Việt Nam
và việc thực hiện các quy định về người bị hại qua thực tiễn tố tụng tỉnh
Thái Nguyên
Chương 3: Một số giải pháp đảm bảo thực hiện quy định về người bị hại
trong TTHS
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI BỊ HẠI
TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm người bị hại trong tố tụng hình sự
1.1.1. Khái niệm
Theo Từ điển tiếng Việt, “người bị hại là người chịu sự tác động tiêu
cực của việc, hành vi hoặc sự bất kỳ sự tác động nào khác dẫn đến những
thiệt thòi, mất mát hay tổn thương cho chính họ”. Thiệt hại gây ra cho
người bị hại có thể là thiệt hại về vật chất hoặc phi vật chất và không giới
hạn mức độ thiệt hại
Người bị hại là một khái niệm quen thuộc trong khoa học pháp lý
7
TTHS, Tuy nhiên, thế nào là người bị hại, phạm vi người bị hại... thì cho
đến nay vẫn chưa có sự nhận thức thống nhất, các ý kiến còn khác nhau.
Thứ nhất: Nạn nhân có phải là người bị hại không? Trả lời câu hỏi
này, có quan điểm cho rằng người bị hại chính là nạn nhân của tội phạm.
Thứ hai: “Đối tượng tác động của tội phạm là một bộ phận khách thể
của tội phạm bị hành vi phạm tội tác động đến, gây thiệt hại hoặc đe dọa
gây thiệt hại”. Đối tượng tác động của tội phạm không chỉ là con người mà
còn bao gồm các đối tượng vật chất khác và các hoạt động bình thường
của chủ thể.
Từ những lập luận trên chúng tôi đề xuất khái niệm về người bị hại
trong TTHS như sau: “Người bị hại là một trong số những người tham gia
TTHS, bao gồm các cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về thể chất, tinh
thần, tài sản do tội phạm trực tiếp gây ra, có các quyền và nghĩa vụ tố tụng
do pháp luật quy định trong các quan hệ pháp luật TTHS nhất định”. Khái
niệm này bao hàm các đặc điểm của người bị hại như sau:
Thứ nhất, về chủ thể, người bị hại là cá nhân, pháp nhân, cơ quan
nhà nước hoặc tổ chức khác;
Thứ hai, thiệt hại do tội phạm trực tiếp gây ra có thể là thiệt hại về
thể chất, thiệt hại về tinh thần, thiệt hại về vật chất.
Thứ ba, người bị hại là người tham gia tố tụng, họ có địa vị pháp lý
của người tham gia tố tụng trong các quan hệ pháp luật TTHS tương ứng.
Việc xác định đúng và đưa người bị hại tham gia tố tụng đúng tư
cách sẽ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại sẽ giúp giải
quyết vụ án kịp thời nhanh chóng các thiệt hại do tội phạm gây ra đối với
người bị hại.
1.1.2. Đặc điểm của người bị hại
1.1.2.1. Đặc điểm về chủ thể
Về khái niệm người bị hại, Chúng tôi luận văn cho rằng cần phải
hiểu đúng chữ “người” ở đây bao gồm cả cá nhân và pháp nhân, xuất phát
từ những luận cứ sau:
Thứ nhất, lý luận về tư pháp hình sự nói chung, về NBH nói riêng
của Việt Nam bị ảnh hưởng sâu sắc bởi lý luận về hình sự, tội phạm học
của các nước theo truyền thống dân luật (Civil Law), mà trực tiếp là từ các
nước Liên Xô cũ khi dịch định nghĩa về NBH (hay nạn nhân của tội phạm)
đều dịch đơn giản từ “person” là “người”, hiểu là “con người tự nhiên” mà
quên mất một nghĩa nữa rất quan trọng của từ “person” là “con người pháp
lý” hay còn gọi là pháp nhân.
8
Thứ hai, cách hiểu thu hẹp nghĩa của khái niệm NBH, không công
nhận pháp nhân là NBH, đã vi phạm đến nguyên tắc bảo đảm quyền bình
đẳng trước Tòa án.
Do đó nếu chỉ dừng lại ở quan niệm NBH theo nghĩa là cá nhân sẽ
không xác định được NBH, dẫn đến khó xử lý và đấu tranh với các loại tội
phạm như khủng bố, buôn người, đàn áp tôn giáo, chia rẽ chủng tộc, diệt
chủng, tội gây chiến...
1.1.2.2. Đặc điểm về thiệt hại
NBH là người bị tội phạm xâm phạm đến thể chất, tinh thần, tài sản
hoặc các quyền và lợi ích hợp pháp khác. Thiệt hại về thể chất tức là thiệt
hại về tính mạng, sức khỏe. “Thiệt hại về tinh thần tức là thiệt hại về danh
dự, nhân phẩm. Thiệt hại về tài sản là trường hợp NBH có tài sản bị mất,
bị chiếm đoạt, bị hủy hoại hoặc bị làm hư hỏng”. Ngoài ra NBH còn có thể
bị xâm phạm các quyền và lợi ích hợp pháp khác như bị xâm phạm chỗ ở,
bị cưỡng bức lao động, bị bắt trái pháp luật
Vì vậy, theo Chúng tôi, mặc dù NBH có thể có thêm thiệt hại gián
tiếp, nhưng Điều kiện đầu tiên và tối thiểu là họ có một thiệt hại trực tiếp
từ hành vi phạm tội. Dấu hiệu bị thiệt hại “trực tiếp” cần được quy định rõ
trong BLTTHS khi đưa ra khái niệm pháp lý về NBH.
1.1.2.3. Đặc điểm về hình thức pháp lý
Xét về mặt hình thức, người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản
do tội phạm gây ra chỉ trở thành NBH trong TTHS khi họ tham gia vào các
quan hệ pháp luật TTHS nhất định, nếu chưa tham gia vào các quan hệ
pháp luật này, họ thuần tuý chỉ là các nạn nhân của tội phạm.
1.2. Phân loại người bị hại
Việc phân loại NBH trong TTHS cũng là một cách tiếp cận giúp phân
tích và hiểu sâu sắc thêm nội hàm khái niệm NBH trong TTHS. Kết quả
nghiên cứu của Luận văn tiếp cận phân loại NBH dựa trên các căn cứ sau:
1.2.1. Căn cứ vào yếu tố chủ thể
Dựa vào yếu tố chủ thể có thể phân loại thành người bị hại là cá nhân
và người bị hại là pháp nhân.
- Nhóm NBH là cá nhân.
- Nhóm NBH là tổ chức (pháp nhân)
1.2.2. Căn cứ vào độ tuổi và sự phát triển về nhận thức
Căn cứ vào độ tuổi và sự phát triển về nhận thức của NBH, có thể
chia thành 2 nhóm đối tượng:
9
Nhóm 1: NBH là người đã thành niên và có năng lực TNHS.
Nhóm 2: NBH là người chưa thành niên, NBH có nhược điểm về tâm
thần hoặc thể chất.
Ngoài người chưa thành niên,người có nhược điểm về thể chất là
người bị khuyết tật về thể chất như câm, điếc, mù lòa hoặc người có
nhược điểm về tinh thần như bị hạn chế trong việc nhận thức hoặc Điều
khiển hành vi hoặc người hoàn toàn không có khả năng nhận thức và Điều
khiển hành vi của mình.
1.2.3. Căn cứ vào các quyền tham gia tố tụng của người bị hại
Đây là phương pháp tiếp cận mới, phương pháp tiếp cận dựa trên
quyền (lấy tiêu chí các quyền của NBH làm thước đo, làm cơ sở để xác định
tiêu chí phân loại). Dựa vào phương pháp tiếp cận này, căn cứ vào quyền khi
tham gia tố tụng của NBH có thể phân loại thành NBH thành 2 nhóm:
Nhóm 1: NBH có quyền yêu cầu khởi tố VAHS
Nhóm 2: NBH không có quyền yêu cầu khởi tố VAHS.
1.2.4. Căn cứ vào từng loại tội phạm
Đây là cách phân loại NBH dựa theo cách phân chia các tội phạm
cụ thể trong BLHS Việt Nam năm 1999. Theo cách phân loại này có rất
nhiều loại NBH, có thể kể đến như: NBH trong vụ án giết người, NBH
trong vụ án trộm cắp tài sản, NBH trong vụ án cố ý gây thương tích, NBH
trong vụ án cố ý hủy hoại tài sản, NBH trong vụ án hiếp dâm, NBH trong
vụ án cưỡng ép kết hôn, NBH trong vụ án trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng,
NBH trong vụ án dùng nhục hình
1.2.5. Căn cứ vào thiệt hại
Có thể phân loại NBH thành:
+ Người bị thiệt hại về tài sản.
+ Người bị thiệt hại về sức khỏe (thể chất, tinh thần).
+ Người bị thiệt hại về quyền, lợi ích hợp pháp khác (Ví dụ: trường
hợp NBH trong vụ án xâm phạm chỗ ở, vụ án vi phạm bí mật thư tín, vụ
án bắt giam người trái pháp luật ).
1.3. Địa vị pháp lý của người bị hại trong pháp luật tố tụng hình sự
Theo từ điển Tiếng Việt thì địa vị pháp lý là “1. Vai trò, chỗ đứng
xứng đáng với vai trò, tác dụng có được; 2.Vị trí, chỗ đứng của cá nhân
trong xã hội; 3. Chỗ đứng trong cách nhìn nhận, giải quyết vấn đề”.
Như vậy, muốn tìm hiểu địa vị pháp lý của người bị hại thì phải dựa
vào vai trò, vị trí của họ trong quan hệ pháp luật TTHS.
10
1.3.1. Quyền của người bị hại trong tố tụng hình sự
Trên thực tế, có nhiều lý do khác nhau mà quyền và lợi ích hợp pháp
của người bị hại trong TTHS chưa được quan tâm và bảo vệ một cách
đúng mực. Đôi khi các cơ quan tiến hành tố tụng chỉ tập trung vào việc xử
lý kẻ phạm tội mà quên mất rằng người bị hại chính là những người bị
thiệt hại về tài sản, thể chất, tinh thần do hành vi phạm tội gây ra, do vậy
việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại là một Điều vô
cùng quan trọng. Trong các quyền của người bị hại, chúng tôi chia thành
nhóm các quyền sau:
(i) Các quyền được tham gia quá trình chứng minh và truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với người phạm tội của cơ quan tiến hành tố tụng
- Quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu
- Quyền tham gia phiên tòa, trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa
- Quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự trong một số tội danh và một
số loại tội phạm nhất định
- Quyền rút yêu cầu khởi tố
- Quyền trình bày lời buộc tội tại phiên tòa
(ii) Các quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại và bảo đảm an toàn
tính mạng, sức khoẻ, danh dự
- Quyền đề nghị bồi thường và các biện pháp bảo đảm bồi thường
- Quyền được yêu cầu bảo vệ tính mạng, sức khỏe, các quyền và lợi
ích hợp pháp khi tham gia tố tụng
(iii) Các quyền tố tụng khác
Nhóm các quyền tố tụng khác bao gồm các quyền tố tụng phổ biến,
cơ bản giống với những người tham gia tố tụng khác, bao gồm:
- Quyền được thông báo về quá trình và kết quả giải quyết vụ án
- Quyền được giải thích về quyền và nghĩa vụ khi tham gia tố tụng
- Quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định,
người phiên dịch
- Quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng
- Quyền kháng cáo
- Quyền nhờ luật sư, bào chữa viên nhân dân hoặc người khác bảo
vệ quyền lợi cho mình
11
1.3.2. Nghĩa vụ của người bị hại
Ngoài các quyền người bị hại được hưởng thì người bị hại còn có các
nghĩa vụ pháp lý nhất định. Các nghĩa vụ này thường là:
- Nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan Điều tra, Viện
kiểm sát, Tòa án
- Nghĩa vụ khai báo, cung cấp những thông tin cần thiết giúp cho
làm sáng tỏ sự thật vụ án
1.4. Người bị hại trong luật tố tụng hình sự một số quốc gia trên thế giới
1.4.1. Người bị hại trong luật tố tụng hình sự Liên bang Nga
Theo BLTTHS liên bang Nga được DUMA quốc gia thông qua
ngày 22/11/2001 thì chủ thể tham gia TTHS gồm: “Toà án, các chủ thể
tham gia tố tụng thuộc bên buộc tội, các chủ thể tham gia TTHS thuộc
bên bào chữa và những chủ thể khác tham gia TTHS”. Trong đó, kiểm
sát viên, Dự thẩm viên, Thủ trưởng cơ quan Điều tra, nhân viên Điều
tra, người bị hại, nguyên đơn dân sự thì thuộc nhóm chủ thể tham gia
TTHS thuộc bên bào chữa. Tuỳ theo loại người có những vai trò khác
nhau trong TTHS mà pháp luật Liên bang Nga có quy định quyền và
nghĩa vụ của họ tham gia giải quyết vụ án. Theo khoản 1 Điều 42
BLTTHS Liên bang Nga thì người bị hại là thể nhân, bị thiệt hại về thể
chất tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra, cũng như pháp nhân trong
trường hợp bị thiệt hại về tài sản và uy tín do tội phạm gây ra. Người bị
hại được công nhận bằng quyết định công nhận người bị hại của kiểm
sát viên, dự thẩm viên hoặc Toà án. Địa vị pháp lý của người bị hại
trong Luật TTHS Liên bang nga được quy định bằng các quyền và
nghĩa vụ rất cụ thể.
1.4.2. Người bị hại trong luật tố tụng hình sự Cộng hòa liên bang Đức
Theo luật TTHS Cộng hòa liên bang Đức thì các đối tượng tham
gia vào quan hệ tố tụng để giải quyết vụ án đều là chủ thể tham gia tố
tụng. Tuỳ theo loại người có những vai trò khác nhau trong TTHS mà
pháp luật quy định quyền và nghĩa vụ của họ tham gia giải quyết vụ án.
Trong luật TTHS hình sự Cộng hòa liên bang Đức thì người bị hại là nạn
nhân của tội phạm trước đây có vai trò không đáng kể trong TTHS Cộng
hòa liên bang Đức.
1.4.3. Người bị hại trong luật tố tụng hình sự Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa
Theo luật TTHS Cộng hòa nhân dân Trung Hoa thì các đối tượng
tham gia vào quan hệ tố tụng đều là chủ thể tham gia tố tụng. Người bị hại
12
trong TTHS nước công hoà nhân dân Trung Hoa được phân thành hai loại
là người bị hại trong vụ án thuộc công tố và người bị hại trong vụ án thuộc
tư tố. Người bị hại trong vụ án thuộc công tố từ ngày vụ án được chuyển
giao để thẩm tra trước khi truy tố, có quyền chỉ định người đại diện liên
quan đến vụ án.
“Trong trường Viện kiêm sát nhân dân cấp trên đồng ý với quyết
định miễn tố thì người bị hại có thể kiện ra Toà án nhân dân. Người bị hại
cũng có thể trực tiếp kiện ra Toà án nhân dân mà không cần phải khiếu
nại trước quyết định miễn tố của Viện kiểm sát nhân dân”. Đối với vụ án
tư tố người bị hại có quyền chỉ định người đại diện pháp lý cho mình và có
quyền trực tiếp đưa vụ án ra trước toà. Nếu người bị hại chết hoặc mất khả
năng hành động, người đại diện pháp lý và họ hàng thân thích có quyền
đưa vụ án ra trước toà.
Tiểu kết chương 1
Chương 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG VIỆT NAM VỀ NGƯỜI
BỊ HẠI VÀ THỰC TRẠNG THỰC HIỆN QUY ĐỊNH CỦA BỘ
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ NGƯỜI BỊ HẠI
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ TẠI TỈNH THÁI NGUYÊN
2.1. Lịch sử quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về
người bị hại
Trong nội dung này của luận văn, chúng tôi nghiên cứu lịch sử quy
định của pháp luật TTHS Việt Nam về người bị hại phân chia theo các giai
đoạn điển hình, gồm: thời kỳ Pháp thuộc, thời kỳ từ năm 1945 đến trước
năm 1988; thời kỳ từ năm 1988 đến trước năm 2003 và thời kỳ từ năm
2003 đến nay.
2.1.1. Thời kỳ Pháp thuộc
Thời kỳ này có ba Bộ luật hình sự tố tụng khác nhau được áp dụng
tại Nam kỳ, Trung kỳ và Bắc kỳ. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu lịch sử
pháp luật khẳng định chỉ còn lại BLTTHS áp dụng tại Bắc kỳ, còn hai bộ
luật còn lại chưa tìm được. Nghiên cứu BLTTHS áp dụng tại Bắc kỳ, có thể
rút ra những đặc điểm sau liên quan đến NBH và quyền của NBH. Cụ thể:
Thứ nhất, Bộ luật hình sự tố tụng áp dụng tại Bắc kỳ gồm 13 chương với
211 Điều, trong đó có dành qui định liên quan đến NBH và quyền của NBH
tại Điều 20, 51.
13
Thứ hai, BLTTHS thời kỳ này đã có định nghĩa về NBH tại Điều 9
Bộ luật hình sự tố tụng quy định về NBH như sau: "Bất cứ người nào
phàm đã bị hại về trọng tội hoặc khinh tội, thì đều được có quyền xin minh
cứu. NBH này có thể khai miệng hoặc làm đơn mà khống tố với quan hành
chánh hoặc quan tư pháp".
Thứ ba, Bộ luật hình sự tố tụng áp dụng tại Bắc kỳ không đưa ra định
nghĩa pháp lý của khái niệm chứng cứ, tuy nhiên có xác định lời khai của
NBH là một loại nguồn chứng cứ.
Thứ tư, đã có qui định về thủ tục lấy chứng cung (lấy lời khai của
NBH hoặc người làm chứng).
Thứ năm, đặc biệt BLTTHS thời kỳ này đã qui định về sự tham gia
của người khống tố (người tố cáo, NBH) tại phiên tòa và được tham gia
thủ tục xét hỏi.
Thứ sáu, NBH được qui định có quyền được biết về bản án và
NBH (hoặc người đại biểu đúng phép hoặc người thừa kế của NBH) có
quyền kháng cáo.
Từ sự phân tích ở trên, có thể rút ra kết luận: Pháp luật TTHS nước ta
thời kỳ thực dân Pháp xâm lược chịu ảnh hưởng nặng nề của pháp luật TTHS
Pháp. Tuy đây là công cụ để thực dân Pháp duy trì chế độ thực dân xâm lược,
nhưng bên cạnh đó, xét về mặt khoa học pháp lý, một số quy định của pháp luật
TTHS thời kỳ này đã có những bước phát triển vượt bậc, đặc biệt là bảo đảm
quyền năng tố tụng của những người tham gia tố tụng, trong đó có NBH...
2.1.2. Thời kỳ từ năm 1945 đến trước năm 1988
Thời kỳ này có 5 văn bản quan trọng liên quan đến sự phát triển của
hệ thống tư pháp hình sự, gồm: Hiến pháp 1946, Sắc lệnh số 69-SL về việc
cho phép các bị can có thể nhờ một công dân không phải là luật sư bênh
vực trước Tòa án; Sắc lệnh số 85-SL ngày 22/5/1950 qui định về tổ chức
cải cách Tòa án và Thông tư số 16-TATC ngày 27/9/1974 của TANDTC
hướng dẫn về trình tự tố tụng sơ thẩm về hình sự và bản Hiến pháp năm
1980.
Mặc dù trong thời kỳ này, Nhà nước ta ban hành hai bản Hiếp pháp
(Hiến pháp 1946 và bản Hiến pháp 1980). Các bản Hiếp pháp này được
xem là một nguồn quan trọng của pháp luật TTHS, tuy nhiên, riêng về chế
định quyền con người trong TTHS nói chung và NBH, quyền của NBH
nói riêng thì không có sự phát triển nào được ghi nhận.
2.1.3. Thời kỳ từ năm 1988 đến trước năm 2003
Thời kỳ này đánh dấu sự pháp điển hóa pháp luật TTHS với việc ra
14
đời BLTTHS đầu tiên của nước CHXHCN Việt Nam. Đây được xem là
“bước nhảy” trong lịch sử phát triển pháp luật hình sự và TTHS của Việt
Nam. Nghiên cứu các qui định pháp luật TTHS Việt Nam về quyền của
NBH thời kỳ này cho phép kết luận:
Thứ nhất, BLTTHS năm 1988 (Quốc hội thông qua ngày 28/6/1988,
có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/1989) là kết quả tổng kết kinh nghiệm của
hơn 40 năm hoạt động tư pháp hình sự, là sự thể chế hóa đường lối đổi
mới trong lĩnh vực đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Thứ hai, ngoài BLTTHS 1988 và Hiến pháp năm 1992, pháp luật
TTHS còn ghi nhận sự phát triển về quyền của NBH trong các văn bản
pháp luật TTHS
Thứ ba, giai đoạn 1988 đến trước 2003 đã đánh dấu và ghi nhận bước
phát triển vượt bậc trong việc tôn trọng và ghi nhận quyền của NBH trong
TTHS Việt Nam.
2.1.4. Thời kỳ từ năm 2003 đến nay
Các văn bản pháp luật liên quan đến NBH và quyền của NBH trong
hệ thống pháp luật hình sự và TTHS Việt Nam giai đoạn từ năm 2003 đến
nay hầu hết là các văn bản pháp luật còn hiệu lực thi hành.
Hệ thống hoá các văn bản pháp luật hiện hành có qui định liên quan
đến NBH và quyền của NBH trong TTHS gồm các văn bản pháp lý sau:
Thứ nhất, định danh lại chủ thể là “bị hại” chứ không phải là “người
bị hại”
Thứ hai, thay đổi tên gọi người đại diện hợp pháp của người bị hại
thành người đại diện theo pháp luật của bị hại
Thứ ba, quy định một số quyền mới của bị hại
- Quyền đưa ra chứng cứ của bị hại
- Quyền đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi bị cáo và những người tham
gia phiên tòa
- Quyền nhờ người bảo vệ quyền lợi của mình
- Quyền được tham gia một số hoạt động tố tụng
- Quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bảo vệ tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của người
thân khi bị đe dọa
Thứ tư, sửa đổi quy định về nghĩa vụ của bị hại theo hướng mở rộng
và gắn với các biện pháp cưỡng chế nếu vi phạm nghĩa vụ
15
- Nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng
- Nghĩa vụ khai báo, giám định, cung cấp tài liệu cho cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng
2.2. Thực trạng thực hiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự
hiện hành về người bị hại tại tỉnh Thái Nguyên
2.2.1. Tình hình thụ lý, giải quyết các vụ án hình sự của Toà án
hai cấp tỉnh Thái Nguyên trong những năm gần đây
Thái Nguyên là một tỉnh miền núi trung du đông bắc bộ, có diện
tích đất tư nhiên là 356.282 km
2
, phía bắc tiếp giáp với tỉnh Bắc Cạn,
phía tây tiếp giáp với tỉnh Tuyên Quang, phía tây nam tiếp giáp với tỉnh
Vĩnh Phúc, phía nam tiếp giáp với TP Hà Nội, phía đông nam tiếp giáp
với tỉnh Bắc Giang và phía đông bắc giáp với tỉnh Lạng Sơn; có 8 dân
tộc cùng sinh sống gồm: Kinh, Tày, Nùng, Sán dìu, Sán chay, Dao,
Hmông và Hoa; có 9 huyện, thị xã, thành phố.
Hàng năm, Toà án nhân dân hai cấp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên
đã xét xử một số lượng rất lớn án hình sự số lượng án phải giải quyết
theo hướng tăng dần, năm sau cao hơn năm trước. Tuy nhiên, do không
có đủ thời gian để thu thập dữ liệu do vậy chúng tôi chỉ dùng số liệu thu
thập được từ toà án nhân dân tỉnh Thái Nguyên trong giai đoạn từ năm
2011 đến hết năm 2015 theo bảng sau:
Bảng 2.1: Số liệu toà án nhân dân tỉnh Thái Nguyên trong giai đoạn
từ năm 2011 đến hết năm 2015
Năm
Án sơ thẩm Án phúc thẩm
Tổng
số vụ
xét xử
sơ
thẩm
Số bị
cáo
Số vụ
có
kháng
cáo
Số vụ
kháng
cáo do
người
bị hại
kháng
cáo
Số án
bị
hủy
Tổng
số vụ
xét xử
Phúc
thẩm
Sô vụ
án
phúc
thẩm
có
người
bị hại
Số vụ
án bị
hủy
2011 1198 1857 215 30 6 210 34 6
2012 1269 2025 220 47 15 238 50 5
2013 1372 2273 224 23 4 224 31 3
2014 1276 2241 249 32 5 246 38 10
2015 1196 1958 229 24 14 205 27 10
(Nguồn: số liệu tại văn phòng TAND tỉnh Thái Nguyên)
16
2.2.2. Thực tiễn áp dụng quy định người bị hại trong pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên
Trong thống kê, báo cáo của các cơ quan tố tụng chưa có báo cáo số
lượng, phân loại người bị hại trong tổng số vụ án. Do vậy, đánh giá thực
hiện quy định về NBH gặp rất nhiều khó khăn.
Qua số liệu thu thập tại Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên
trong 02 năm 2014, 2015 thì số tin báo tố giác tội phạm là 4.153 tin thì số
tin báo do nạn nhân bị hại cung cấp là 291 tin chiếm tỷ lệ 0,7%.
Số vụ khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại cũng chiếm tỷ lệ
rất nhỏ, cụ thể:
Bảng 2.2: Số vụ khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại
Năm
Số vụ khởi tố
Tổng Khởi tố theo yêu cầu của
ngườ bị hại hoặc đại diện
của người bị hai
Tỷ lệ
2011 1319 142 10,7%
2012 1425 173 12,1%
2013 1275 144 11,2%
2014 1463 137 9,4%
2015 1272 102 8%
(Nguồn Phòng thống kê Viện Kiểm sát tỉnh cung cấp)
Qua phân tích một số vụ án và thực tiễn xét xử tại Toà án nhân dân
tỉnh Thái Nguyên cho thấy: thực trạng thực hiện các quy định của
BLTTHS năm 2003 về NBH tồn tại một số hạn chế điển hình như: xác
định sai tư cách người bị hại; xác định người mà theo quy định của Bộ luật
hình sự thì tội phạm đó không có người bị hại; vấn đề liên quan đến việc
quy định và thực hiện các quyền của người bị hại; vấn đề đối với người đại
diện hợp pháp của người bị hại; vấn đề trình bày lời buộc tội của người bị
hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại; vấn đề về nghĩa vụ
khai báo của người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại
Có nhiều vụ án xác định không đúng tư cách tham gia tố tụng của
người bị hại; xác định sai người bị hại, hoặc liên quan đến sự vắng mặt
của người bị hại; người đại diện cho người bị hại tại phiên toà Do vậy
đã dẫn đến việc giải quyết vụ án không đúng, kéo dài, xâm phạm đến
quyền và lợi ích của người bị hại nói riêng và người tham gia tố tụng trong
vụ án hình sự nói chung. Trong thực tiễn công tác Điều tra, truy tố, xét xử
thường xảy ra trong các trường hợp sau:
17
Một là: xác định sai tư cách người bị hại
Hai là: xác định người mà theo quy định của Bộ luật hình sự thì tội
phạm đó không có người bị hại
Ba là: Vấn đề liên quan đến việc quy định và thực hiện các quyền của
người bị hại
Bốn là: Đối với người đại diện hợp pháp của người bị hại
Năm là: Vấn đề trình bày lời buộc tội của người bị hại hoặc người
đại diện hợp pháp của người bị hại
Sáu là: Vấn đề về nghĩa vụ khai báo của người bị hại hoặc người đại
diện hợp pháp của người bị hại
2.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong việc thực hiện quy
định về người bị hại theo Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực
tiễn tỉnh Thái Nguyên
Những bất cập, hạn chế trong thực tiễn bảo đảm quyền của NBH
trong TTHS Việt Nam thời gian qua là xuất phát từ nhiều nguyên nhân
khác nhau, theo chúng tôi, về cơ bản có ba nguyên nhân chính sau:
2.3.1. Nhận thức về quyền của người bị hại chưa đầy đủ
Đánh giá nguyên nhân của thực trạng bất cập trong bảo đảm quyền
của NBH Chúng tôi cho rằng nguyên nhân chính, cơ bản nhất là do xuất
phát từ chính nhận thức không đầy đủ về quyền cuả người bị hại từ chính
cơ quan lập pháp, từ phía cơ quan THTT, người THTT và từ chính NBH.
2.3.1.1. Từ phía cơ quan lập pháp
Chúng tôi cho rằng từ phía cơ quan lập pháp, các nhà làm luật ở Việt
Nam hiện nay chưa nhận thức đầy đủ lý luận về quyền của NBH cũng như
tầm quan trọng của việc nâng cao nhận thức về quyền của NBH. Do chính
lý luận về mục tiêu của hệ thống tư pháp hình sự ở Việt Nam chưa hướng
đến NBH mà chỉ tập trung vào việc nhằm chứng minh tội phạm, chứng
minh người phạm tội và đấu tranh phòng, chống, thông qua đó bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước và công dân.
2.3.1.2. Từ phía người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng
Điều tra viên trong quá trình chứng minh, tìm sự thật VAHS chỉ chú
trọng đến bị can, lỗi của bị can, cũng như diễn biến quá trình, hành vi
phạm tội. NBH vì thế, trong quan niệm của người THTT, đóng vai trò như
là một “đối tượng tác động nhằm gây thiệt hại” của hành vi phạm tội.
2.3.1.3. Từ phía người bị hại
Hạn chế về nhận thức quyền của NBH biểu hiện rõ nhất là NBH
18
không ý thức được mình là một chủ thể có quyền (quyền nhiều hơn nghĩa
vụ) khi tham gia tố tụng. Tâm lý “sợ sệ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- lhs_nguoi_bi_hai_trong_phap_luat_to_tung_hinh_su_viet_nam_tren_co_so_thuc_tien_dia_ban_tinh_thai_ngu.pdf