Để các doanh nghiệp này đăng ký kinh doanh đúng quy định,
Điều 27, Luật Doanh nghiệp 2014 quy định thủ tục đăng ký kinh
doanh. Xét dưới góc độ kinh tế, thì thành lập doanh nghiệp là quá
trình chuẩn bị các điều kiện vật chất cần và đủ cho việc hình thành
một tổ chức kinh doanh, nhà đầu tư phải chuẩn bị các điều kiện về
trụ sở, nhà xưởng, dây truyền sản xuất, thiết bị kỹ thuật, đội ngũ
người công nhân, người quản lý.
Với tư cách là thủ tục pháp lý để thành lập doanh nghiệp, đăng
ký kinh doanh có tính chất bắt buộc và cho phép xác lập tư cách
pháp lý của chủ thể kinh doanh tức là xác định tư cách pháp lý của
doanh nghiệp.
25 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 609 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Pháp nhân thương mại theo Pháp luật Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thời gian: Từ 2013-2016
Phạm vi nghiên cứu: Cả nước
5. Mục ích v nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu những nội dung lý luận cơ bản về pháp nhân, phân
tích địa vị pháp lý của pháp nhân thương mại theo pháp luật hiện
hành và thực tiễn hoạt động của pháp nhân thương mại cũng như các
phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện địa vị pháp lý của
pháp nhân thương mại trong giai đoạn hiện nay.
5.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản
về pháp nhân thương mại;
+ Phân tích, đánh giá, làm rõ địa vị pháp lý của pháp nhân
thương mại. Trên cơ sở đó, luận văn nêu lên những hạn chế, bất cập,
quy định chồng chéo giữa các quy định pháp luật quy định pháp
nhân thương mại;
+ Phân tích hoạt động thực tiễn của pháp nhân thương mại;
đồng thời đưa ra phương hướng sửa đổi, bổ sung của pháp luật về
pháp nhân thương mại.
6. Bố cục c a luận văn
6
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo,
Nội dung Luận văn được kết cấu thành 3 Chương như sau:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về pháp nhân thương mại
Chương 2. Pháp luật Việt Nam về pháp nhân thương mại
Chương 3. Thực tiễn thực hiện và các giải pháp hoàn thiện, tổ
chức thực hiện pháp luật về pháp nhân thương mại
PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP NHÂN THƢƠNG MẠI
1.1. Khái niệm, bản chất pháp lý c a pháp nhân thƣơng mại
1.1.1. K i i m về và ươ mại:
Pháp nhân được hiểu là một tổ chức thống nhất, độc lập, hợp
pháp có tài sản riêng và chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình,
nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách độc
lập.
Pháp nhân thương mại được hiểu là các tổ chức hoạt động vì
mục đích kinh doanh, kiếm lời, tồn tại dưới tên gọi khác nhau và tài
sản được hình thành theo nhiều hình thức khác nhau. Các pháp nhân
này thường gồm các loại: công ty, tập đoàn, hợp tác xã,...
1.1.2. Bả ấ ý và ươ
mại
T ứ ấ , có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự.
T ứ i, năng lực pháp luật và năng lực hành vi của pháp nhân
thương mại cùng xuất hiện hoặc cùng chấm dứt ở một thời điểm.
T ứ b , pháp nhân kinh doanh có quyền nhân thân.
7
T ứ ư, pháp nhân thương mại chỉ có thể thực hiện hành vi
thông qua cơ quan của pháp nhân đó.
1.2. Vai trò c a pháp nhân thƣơng mại
Mộ à, pháp nhân thương mại là công cụ liên kết ý chí của
nhiều người thành một ý chí chung.
Hai là, pháp nhân thương mại đại diện cho quyền lợi của nhiều
chủ thể thành viên.
Ba là, không chỉ là công cụ liên kết ý chí của các chủ thể, pháp
nhân thương mại còn là công cụ liên kết nguồn vốn của nhiều chủ
thể đầu tư vào một chủ thể duy nhất.
B à, pháp nhân thương mại là công cụ hạn chế rủi ro trong
kinh doanh.
1.3. Một số pháp nhân thƣơng mại ch yếu
Việc phân loại pháp nhân là cơ sở để Nhà nước có quy định
pháp luật phù hợp với từng loại pháp nhân, nhằm phục vụ mục tiêu
quản lý nhà nước và thúc đẩy từng pháp nhân hoạt động có hiệu quả.
Đối với các pháp nhân thương mại ở Việt Nam có thể được
phân thành các loại sau:
- Pháp nhân thương mại là hợp tác xã
Đây là một tổ chức doanh nghiệp mà mục tiêu lợi nhuận dễ
dàng đạt được hơn khi có nhiều cá nhân chung vốn, góp sức tiến
hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Hợp tác xã được
thành lập để tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Lợi
nhuận là mục tiêu quan trọng nhất trên cơ sở nguyên tắc bình đẳng
về quyền và nghĩa vụ như tất cả mọi loại hình doanh nghiệp khác.
- Pháp nhân thương mại là công ty cổ phần
8
Đây là loại hình doanh nghiệp mà vốn điều lệ được chia thành
nhiều phần bằng nhau (gọi là cổ phần). Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm
về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi
số vốn đã góp vào doanh nghiệp. Các cổ đông có thể bán các cổ phần
hoặc chuyển nhượng cổ phần của mình cho các thành viên hay cá
nhân khác. Số lượng cổ đông được bao gồm ít nhất ba cổ đông và
không hạn chế số cổ đông. Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân. Số
lượng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn chế số lượng tối đa.
- Pháp nhân thương mại là công ty trách nhiệm hữu hạn
Đây là loại hình doanh nghiệp có 2 thành viên trở lên và công
ty TNHH 1 thành viên. Công ty TNHH có tư cách pháp nhân từ ngày
được cấp giấy phép kinh doanh. Công ty trách nhiệm hữu hạn không
được quyền phát hành cổ phần. Các thành viên công ty chịu trách
nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi phần vốn cam kết
góp vào công ty.
- Pháp nhân thương mại là công ty hợp danh
Đây là loại hình đặc trưng của công ty đối nhân trong đó có
các cá nhân và thương nhân cùng hoạt động trong lĩnh vực thương
mại dưới một hãng và cùng nhau chịu mọi trách nhiệm về các khoản
nợ của công ty.
Công ty hợp danh có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp
giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Trong quá trình hoạt động,
công ty hợp danh không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán
nào.
1.4. Phân biệt pháp nhân thƣơng mại với các loại ch thể
khác
1.4.1. Pháp nhân thương mại với cá nhân
9
Cũng là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự nhưng pháp nhân
nói chung và pháp nhân thương mại nói riêng khác cá nhân ở các
điểm sau:
Mộ à, pháp nhân thương mại là một chủ thể được hư cấu bởi
pháp luật, do con người quy định các điều kiện, dấu hiệu pháp lý cho
nó, còn cá nhân là một chủ thể tự nhiên, không cần “ai” quy định các
dấu hiệu pháp lý của chủ thể này.
Hai là, năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự
của pháp nhân xuất hiện và chấm dứt ở cùng một thời điểm, còn
“năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và
chấm dứt khi người đó chết”.
Ba là, năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự
của pháp nhân thương mại là khả năng của pháp nhân thương mại đó
có các quyền và nghĩa vụ dân sự phù hợp với mục đích hoạt động
của mình, còn năng lực pháp luật dân sự của mọi cá nhân đều như
nhau.
B à, pháp nhân thương mại thực hiện hành vi của mình thông
qua cơ quan của pháp nhân hoặc thông qua việc “uỷ quyền”, trong
khi đó từng cá nhân bằng năng lực hành vi của mình tự xác lập, thực
hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự.
Năm là, pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm dân sự
bằng tài sản của mình do những hành vi do người đại diện của pháp
nhân xác lập, thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại đó. Còn cá
nhân với tư cách là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự, bằng hành
vi của mình xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự. Tuy nhiên,
có trường hợp cá nhân do không có đầy đủ năng lực hành vi hoặc bị
10
hạn chế năng lực hành vi thì việc xác lập, thực hiện quyền và nghĩa
vụ dân sự của mình được thực hiện thông qua người giám hộ.
1.4.2. Pháp nhân thương mại với hộ gia đình
Những điểm khác nhau giữa pháp nhân thương mại với hộ gia
đình trên phương diện là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự, đó là:
Mộ à, nếu trong hộ gia đình có những người không có năng
lực hành vi, hạn chế năng lực hành vi thì ngay trong gia đình đó đã
có người đại diện đương nhiên để tham gia quan hệ pháp luật dân
sự. Còn đối với pháp nhân thương mại, chủ thể của pháp nhân này
phải là những cá nhân, tổ chức có đủ năng lực hành vi dân sự.
Hai là, số lượng thành viên trong hộ không có giới hạn tối đa
nhưng phải có ít nhất hai cá nhân trở lên, còn với pháp nhân thương
mại chỉ cần một chủ thể là cá nhân hay tổ chức.
Ba là, khi tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự thì năng lực
chủ thể của hộ gia đình có tính chất hạn chế trong một số lĩnh vực,
đó là: “hoạt động kinh tế chung trong quan hệ sử dụng đất, trong sản
xuất nông, lâm, ngư nghiệp và trong một số lĩnh vực kinh doanh
khác dó pháp luật quy định”, còn pháp nhân thương mại được quyền
tự do kinh doanh những ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm.
B à, hộ gia đình hoạt động với tư cách chủ thể trong quan hệ
pháp luật dân sự thông qua đại diện của hộ gia đình, đó là chủ hộ.
Người đại diện cho hộ gia đình xác lập, thực hiện các giao dịch làm
phát sinh quyền và nghĩa vụ cho cả hộ, đồng thời cũng làm phát sinh
trách nhiệm với tư cách chủ thể.
1.4.3. Pháp nhân thương mại với tổ hợp tác
Mộ à, tổ hợp tác được hình thành trên cơ sở hợp đồng hợp tác
để thực hiện “những công việc nhất định”. Còn pháp nhân thương
11
mại được hình thành không chỉ trên cơ sở sự thoả thuận, hợp tác của
các cá nhân, tổ chức mà còn do ý chí chủ quan, mệnh lệnh của cá
nhân, tổ chức như các pháp nhân được các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền quyết định thành lập.
Hai là, về chủ thể tham gia thành lập tổ hợp tác chỉ có thể là cá
nhân và từ 3 cá nhân trở lên, trong khi đó chủ thể tham gia thành lập
pháp nhân thương mại có thể là cá nhân hoặc tổ chức.
Ba là, về chức năng hoạt động thì tổ hợp tác được thành lập để
thực hiện các “công việc nhất định” để phục vụ lợi ích trước hết là
cho từng tổ viên và sau đó là tạo tích luỹ chung của tổ theo thoả
thuận, còn pháp nhân thương mại không chỉ thực hiện chức năng
phục vụ lợi ích của chủ sở hữu mà có pháp nhân thương mại còn
thực hiện chức năng cung ứng dịch vụ công.
B à, khi tham gia vào pháp nhân thương mại, doanh nghiệp
chủ thể đã thực hiện đầu tư một khoản vốn nhất định vào doanh
nghiệp đó, cùng hưởng lợi và cùng chịu rủi ro trong phạm vi số vốn
mà mình đã đầu tư đó. Chủ sở hữu doanh nghiệp chỉ được rút khỏi
công ty khi nhượng lại phần vốn của mình cho chủ thể khác. Còn khi
ra khỏi tổ hợp tác, tổ viên có quyền yêu cầu nhận lại tài sản đã góp
khi hình thành tổ hợp tác theo thoả thuận.
Năm à, nguyên tắc mang tính đặc trưng của tổ hợp tác đó là
hoạt động trên cơ sở tự nguyện, dân chủ, bình đẳng, công khai và
cùng có lợi, nên tổ viên tham gia tổ hợp tác có tiếng nói ngang nhau,
đều được tham gia biểu quyết về một vấn đề bằng một lá phiếu.
Sáu là, về trách nhiệm đối với các quyền và nghĩa vụ dân sự.
Pháp nhân thương mại thực hiện trách nhiệm đối với tài sản là trách
nhiệm hữu hạn như đã đề cập ở trên. Còn với tư cách là chủ thể của
12
quan hệ pháp luật dân sự khi tham gia vào các quan hệ pháp luật dân
sự, tổ hợp tác có quyền, nghĩa vụ dân sự và chịu trách nhiệm bằng
tài sản chung của tổ.
1.4.4. Pháp nhân thương mại với pháp nhân phi thương mại
Xét về mục tiêu hoạt động, pháp nhân thương mại là pháp
nhân hoạt động vì mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận. Pháp nhân
thương mại bao gồm doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác. Còn
pháp nhân phi thương mại là pháp nhân hoạt động không vì mục tiêu
chính là tìm kiếm lợi nhuận và không phân chia lợi nhuận cho các
thành viên. Pháp nhân phi thương mại bao gồm cơ quan nhà nước,
đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã
hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã
hội – nghề nghiệp, quỹ xã hội, quỹ từ thiện, doanh nghiệp xã hội và
các tổ chức phi thương mại khác.
1.4.5. Pháp nhân thương mại với thương nhân
Trướ ế , xét về quan i m chung, bản thân là một pháp nhân,
pháp nhân thương mại là một tổ chức được thành lập theo Bộ luật
dân sự và pháp luật khác có liên quan, có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, có
tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm
bằng tài sản của mình và nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật
một cách độc lập. Trong khi đó, thương nhân là tổ chức kinh tế được
thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập,
thường xuyên và có đăng ký kinh doanh.
Xét về tính ấ ị trách i m: pháp nhân thương mại chịu
trách nhiệm độc lập, hữu hạn với tài sản cá nhân, còn thương nhân
chịu trách nhiệm vô hạn đối với tài sản cá nhân.
13
Xét về : pháp nhân thương mại chỉ có thể là tổ chức,
trong khi đó, thương nhân có thể là tổ chức hoặc cá nhân. Do đó, khi
phân loại thương nhân thì có thể có thương nhân là cá nhân hoặc
cũng có thể thương nhân là pháp nhân.
Xét về đ i ượ mang ợi ích: thương nhân hoạt động vì mục
tiêu mang lại lợi ích cho chính thương nhân đó nhiều hơn, trong khi
đó, đối với pháp nhân thương mại có thể mang lợi ích cho chính
pháp nhân đó hoặc cho xã hội. Chẳng hạn như: công ty dịch vụ công
ích.
Chƣơng 2
PHÁP LUẬT VIỆT NAM
VỀ PHÁP NHÂN THƢƠNG MẠI
2.1. Th nh lập, hoạt ộng, chấm dứt pháp nhân thƣơng mại
2.1.1. Các quy định về thành lập pháp nhân thương mại
Để các doanh nghiệp này đăng ký kinh doanh đúng quy định,
Điều 27, Luật Doanh nghiệp 2014 quy định thủ tục đăng ký kinh
doanh. Xét dưới góc độ kinh tế, thì thành lập doanh nghiệp là quá
trình chuẩn bị các điều kiện vật chất cần và đủ cho việc hình thành
một tổ chức kinh doanh, nhà đầu tư phải chuẩn bị các điều kiện về
trụ sở, nhà xưởng, dây truyền sản xuất, thiết bị kỹ thuật, đội ngũ
người công nhân, người quản lý...
Với tư cách là thủ tục pháp lý để thành lập doanh nghiệp, đăng
ký kinh doanh có tính chất bắt buộc và cho phép xác lập tư cách
pháp lý của chủ thể kinh doanh tức là xác định tư cách pháp lý của
doanh nghiệp.
14
2.1.2. Các quy định về hoạt động của pháp nhân thương mại
Về hoạt động nội tại của pháp nhân, khoản 2, Điều 84, Bộ Luật
Dân sự quy định một trong những điều kiện của pháp nhân là “có cơ
cấu tổ chức chặt chẽ”. Trước tiên, tổ chức là một tập thể người được
sắp xếp phù hợp với chức năng và lĩnh vực hoạt động, đảm bảo tính
hiệu quả của loại hình tổ chức đó.
Ngoài các hoạt động nội tại, pháp nhân thương mại còn có các
hoạt động xác lập các giao dịch với bên ngoài của pháp nhân. Tại
Khoản 4, Điều 84, Bộ Luật Dân sự quy định một trong những điều
kiện để các tổ chức được coi là pháp nhân là “nhân danh mình tham
gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập”.
Người đại diện của pháp nhân thương mại có thể là một người
hoặc một bộ phận trong tổ chức của pháp nhân. Tại Khoản 1, Điều
91, Bộ Luật Dân sự quy định “Đại diện của pháp nhân có thể là đại
diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền”:
+ Đại i e
+ Đại i e y yề :
2.1.3. Các quy định về chấm dứt hoạt động của pháp nhân
thương mại
Đối với pháp nhân thương mại, việc chấm dứt được thực hiện
dưới hai hình thức: Giải thể và cải tổ pháp nhân. Còn trường hợp
pháp nhân bị tuyên bố phá sản được điều chỉnh bởi Luật Phá sản và
được tiến hành bởi con đường pháp lý khác. Pháp nhân thương mại
có thể bị giải thể trong các trường hợp được quy định tại điều 98 Bộ
Luật Dân sự, đó là: theo quy định của điều lệ; theo quyết định của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền; hết thời hạn hoạt động được ghi
15
trong điều lệ hoặc trong quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền.
Cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định thành lập pháp
nhân thương mại thì cũng có quyền quyết định giải thể pháp nhân đó.
Khi giải thể, pháp nhân thương mại phải thực hiện các nghĩa vụ về
tài sản của mình như: nộp thuế, nộp bảo hiểm, trả nợ lương, các
khoản nợ có bảo đảm, các khoản nợ khác....
2.2. Các yếu tố về lý lịch pháp nhân thƣơng mại
2.2.1.Tên gọi của pháp nhân thương mại
Theo khoản 3, Điều 38, Luật Doanh nghiệp năm 2014 thì căn cứ
vào quy định về tên doanh nghiệp, cho phép cơ quan đăng ký kinh
doanh có quyền từ chối chấp thuận tên dự kiến đăng ký của doanh
nghiệp. Trong kinh doanh, các yêu cầu đối với tên gọi của pháp nhân
còn có ý chống cạnh tranh không lành mạnh và bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng. Vì vậy, trong Luật Doanh nghiệp năm 2014 còn
dành riêng một điều để quy định về vấn đề này, đó là Điều 42, quy
định cụ thể về các trường hợp về “Tên trùng và tên gây nhầm lẫn”.
2.2.2. Trụ sở của pháp nhân thương mại
Đối với pháp nhân thương mại, tại Điều 43, Luật doanh nghiệp
năm 2014 quy định: Trụ sở chính của doanh nghiệp là địa điểm liên
lạc của doanh nghiệp trên lãnh thổ Việt Nam, có địa chỉ được xác
định gồm số nhà, ngách, hẻm, ngõ phố, phố, đường hoặc thôn, xóm,
ấp, xã, phường, thị trấn, huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh,
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; số điện thoại, số fax và thư
điện tử (nếu có)..
2.3. Quốc tịch c a pháp nhân thƣơng mại
16
Mỗi pháp nhân đều có một quốc tịch và quốc tịch của pháp nhân
được xác định theo nguyên tắc pháp nhân được thành lập theo pháp
luật Việt Nam thì là pháp nhân Việt Nam, mang quốc tịch Việt Nam.
Tổ chức, cá nhân Việt Nam; tổ chức, cá nhân nước ngoài có quyền
thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam và các doanh
nghiệp này được thành lập theo pháp luật Việt Nam đều mang quốc
tịch Việt Nam. Quốc tịch của pháp nhân là mối liên hệ pháp lý giữa
pháp nhân với Nhà nước.
2.4. Cơ quan iều h nh v ại diện c a pháp nhân thƣơng
mại
Cơ quan điều hành của pháp nhân thương mại có nhiệm vụ soạn
thảo chương trình hoạt động và điều hành công việc hàng ngày của
pháp nhân thương mại theo quy định của pháp luật hoặc theo điều lệ
của pháp nhân. Chẳng hạn, Giám đốc của một doanh nghiệp là người
được ủy quyền đầy đủ quyền hạn để điều hành hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp và có quyền họat động nhân danh doanh nghiệp
này trong mọi trường hợp.
Theo Khoản 3, Điều 86, Bộ Luật Dân sự quy định: Người đại
diện hợp pháp theo pháp luật hoặc người đại diện hợp pháp theo ủy
quyền của pháp nhân nhân danh pháp nhân trong quan hệ dân sự .
Do đó, đối với pháp nhân thương mại, hành vi của những người đại
diện của pháp nhân thương mại cũng được hiểu là hành vi thực hiện
năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân đó, tạo ra quyền và nghĩa
vụ dân sự cho pháp nhân thương mại, chứ không phải cho người thực
hiện hành vi đó.
Người đại diện của pháp nhân thương mại có thể là một người
hoặc một bộ phận trong tổ chức của pháp nhân. Tại Khoản 1, Điều
17
91, Bộ Luật Dân sự quy định “Đại diện của pháp nhân có thể là đại
diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền”:
2.5. Quyền v nghĩa vụ dân sự c a pháp nhân thƣơng mại
Xuất phát từ quan điểm tự do kinh doanh, Luật Doanh nghiệp đã
tạo cho các pháp nhân thương mại có quyền kinh doanh các ngành,
nghề mà pháp luật không cấm và được quy định cụ thể tại Điều 7
Luật Doanh nghiệp năm 2014.
Song song với quyền, trong quá trình hoạt động, các pháp nhân
thương mại, mà cụ thể ở đây là các doanh nghiệp cũng có nghĩa vụ
nhằm đạt được mục đích kinh doanh của mình, được quy định chi
tiết tại Điều 8 của Luật này.
2.6. Trách nhiệm dân sự c a pháp nhân thƣơng mại
Chế định người đại diện cho pháp nhân thương mại được áp
dụng theo các quy định từ Điều 139 đến Điều 148 của Bộ luật Dân
sự Việt Nam. Nội dung của chế định này là nhằm điều chỉnh mối
quan hệ giữa người đại diện và người được đại diện.
Về cách thức lựa chọn người đại diện theo pháp luật của công
ty, có hai cách thức sau: Theo pháp luật quy định hoặc theo sự thoả
thuận của các chủ thể sáng lập công ty. Trong rất nhiều trường hợp,
Luật Doanh nghiệp quy định về thẩm quyền của người đại diện mang
tính bắt buộc chung. Chẳng hạn, trước đây các hợp đồng kinh tế có
giá trị lớn, Điều 120 Luật Doanh nghiệp quy định phạm vi thực hiện
đại diện của người đại diện được pháp luật giới hạn: “Hội đồng quản
trị chấp thuận các hợp đồng và giao dịch có giá trị nhỏ hơn 50% tổng
giá trị tài sản doanh nghiệp ghi trong báo cáo tài chính gần nhất”
hoặc Đại hội cổ đông chấp thuận các hợp đồng và giao dịch khác trừ
các trường hợp quy định tại khoản 2, Điều 120, Luật Doanh nghiệp.
18
Nếu có sự vượt quá thẩm quyền thì hợp đồng sẽ vô hiệu, những
người gây ra thiệt hại phải bồi thường
Chƣơng 3.
THỰC TIỄN THỰC HIỆN VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN
THIỆN, TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ PHÁP NHÂN THƢƠNG MẠI
3.1. Thực tiễn thực hiện pháp luật về pháp nhân thƣơng mại
Trước hết, để đánh giá về tình hình thực hiện áp dụng pháp
luật về pháp nhân thương mại ở Việt Nam cũng cần phải khái quát về
thực trạng hoạt động của các pháp nhân thương mại (các doanh
nghiệp) ở nước ta hiện nay.
Có thể nói, trong những năm gần đây, các doanh nghiệp Việt
Nam tiếp tục có nhiều thuận lợi trong hoạt động sản xuất kinh doanh
khi giá dầu thế giới giảm, doanh nghiệp không chịu sức ép của giá
chi phí đầu vào. Cùng với những nỗ lực để cải thiện môi trường kinh
doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, hoạt động của doanh
nghiệp Việt Nam đã có những khởi sắc đáng kể.
Trong bối cảnh kinh tế Việt Nam hội nhập sâu với kinh tế
quốc tế, những thay đổi từ bên ngoài đã có những ảnh hưởng nhất
định tới kinh tế trong nước thì việc xây dựng khung pháp lý cho hoạt
động đầu tư và sản xuất, kinh doanh phù hợp với thông lệ quốc tế là
hết sức cần thiết. Sự ra đời của Luật Doanh nghiệp 2014 và Luật Đầu
tư 2014 cũng không nằm ngoài mục tiêu này.
3.2. Những hạn chế, bất cập c a pháp luật iều chỉnh ối với
pháp nhân thƣơng mại
19
3.2.1. N ữ bấ về đă ký ki pháp nhân
ươ mại:
Dù được coi là đạo luật có nhiều điểm sáng, thể hiện ý chí quyết
tâm cải cách, giúp môi trường kinh doanh ở nước ta ngày càng minh
bạch, thuận lợi, là động lực thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp;
tuy nhiên, có không ít nội dung mà Nghị định số 78/2015/NĐ-CP
ban hành về đăng ký kinh doanh vẫn chưa đáp ứng được kỳ vọng,
khiến tư tưởng của Luật Doanh nghiệp 2014 bị lung lay và nếu
không kịp thời điều chỉnh sẽ gây ra nhiều hệ lụy.
Theo Luật Doanh nghiệp 2014, doanh nghiệp có thể tự lựa chọn
ngành nghề đăng ký kinh doanh nhưng cơ quan đăng ký kinh doanh
vẫn yêu cầu phải trình bản xác nhận ngành nghề, doanh nghiệp vẫn
phải kê khai. Việc thông báo mẫu dấu cũng mất nhiều thời gian,
khoảng 4 ngày, gây khó khăn cho doanh nghiệp. Một điểm nữa là,
Luật Đầu tư đã có hiệu lực nhưng vẫn chưa có Nghị định hướng dẫn
thực hiện mà chỉ dựa vào những công văn hướng dẫn của Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, tuy nhiên các văn bản này lại chưa thống nhất,
khiến doanh nghiệp khó áp dụng.
3.2.2. Mộ vướ mắ iê ới ý ị pháp nhân
ươ mại:
Theo Luật Doanh nghiệp 2014, trước khi sử dụng con dấu,
doanh nghiệp có nghĩa vụ thông báo mẫu dấu với cơ quan đăng ký
kinh doanh để đăng tải công khai trên cổng thông tin quốc gia về
đăng ký doanh nghiệp. Điều này có nghĩa, thông báo mẫu dấu là một
nghĩa vụ hành chính của doanh nghiệp. Tuy nhiên, Nghị định số
78/2015/NĐ-CP lại quy định khi thông báo mẫu dấu phải thông báo
“thời điểm có hiệu lực của mẫu dấu”.
20
Rõ ràng, quy định này vừa không đúng với Luật Doanh nghiệp
2014 và không đúng với mục tiêu tạo tính tự chủ cho doanh nghiệp
về con dấu. Ngoài ra, Nghị định số 96/2015/NĐ-CP ngày 19/10/2015
loại bỏ các loại hình doanh nghiệp được thành lập theo các luật:
Công chứng, luật sư, giám định tư pháp, kinh doanh bảo hiểm, chứng
khoán, hợp tác xã, trong khi Luật Doanh nghiệp không có hạn chế
này. Những vấn đề này cho thấy, các nghị định hướng dẫn Luật
Doanh nghiệp 2014 đã có những điểm trái Luật Doanh nghiệp. Đây
không phải là những quy định mang tính hướng dẫn chi tiết mà là
những quy định thay đổi hẳn nội dung, phạm vi áp dụng của Luật
Doanh nghiệp. Do đó, rất cần thiết phải xem xét lại các vấn đề này
trước khi việc áp dụng trở nên phổ biến và tạo thành nếp nghĩ thì hệ
lụy sẽ khôn lường.
3.2.3. N ữ y đị iê ới pháp nhân ươ mại
à ô y ợ
Từ những đặc điểm của công ty hợp danh cho thấy việc quy
định về tính độc lập về tài sản của công ty hợp danh là chưa triệt để.
Luật Doanh nghiệp năm 2014 tại khoản 1, Điều 174 có quy định về
việc chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn của thành viên thành tài
sản của công ty để khẳng định tính độc lập về tài sản của công ty hợp
danh với các thành viên tạo ra nó. Tuy nhiên, Luật Doanh nghiệp lại
đồng thời quy định chế độ chịu trách nhiệm vô hạn của thành viên
hợp danh đối với các nghĩa vụ của của công ty.
Chế độ này được hiểu là thành viên hợp danh chịu trách nhiệm
bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty. Cụ thể
hơn, đối với những khoản nợ của công ty, thành viên hợp danh có
nghĩa vụ chịu trách nhiệm thanh toán hết số nợ còn lại của công ty
21
nếu tài sản của công ty không đủ để trang trải số nợcủa công ty. Như
vậy, thành viên hợp danh sẽ phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài
sản của mình, không kể là tài sản đã chuyển quyền sở hữu cho công
ty hay tài sản của cá nhân không đưa vào tài sản công ty.
Thêm vào đó, khoản 3 Điều 94, Bộ Luật Dân sự quy định:
“Thành viên pháp nhân không chịu trách nhiệm dân sự thay cho pháp
nhân đối với nghĩa vụ dân sự do pháp nhân xác lập, thực hiện”.
Nhưng chế độ chịu trách nhiệm vô hạn của thành viên hợp danh, như
đã nói ở trên, xác lập việc các thành viên hợp danh chịu trách nhiệm
trả nợ bằng tài sản cá nhân của mình đối với các khoản nợ công ty
không có khả năng thanh toán. Điều đó càng thấy rõ điểm bất hợp lý
trong quy định của Luật Doanh nghiệp về tính pháp nhân của công ty
hợp danh.
3.2.4. Mộ bấ y đị iê ới ả pháp
ươ mại
Luật Phá sản chỉ áp dụng đối với các pháp nhân thương mại là
các doanh nghiệp và hợp tác xã mà không áp dụng cho hộ kinh
doanh, hộ gia đình, cá nhân. Điều này không phù hợp với pháp luật
thế giới. Ở phần lớn các nước, chế định phá sản được áp dụng đối
với cả hộ gia đình, cá nhân bị khánh kiệt, chiếm một phần lớn số vụ
việc phá sản.
3
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_van_phap_nhan_thuong_mai_theo_phap_luat_viet_na.pdf