Vai trò của trật tự xây dựng
Thứ nhất, hoạt động quản lý trật tự xây dựng có ý nghĩa lớn trong
giai đoạn phát triển nhanh hiện nay.
Thứ hai, xây dựng không phép, trái phép, vi phạm các trật tự xây
dựng đô thị đang là các vấn đề nổi cộm của các đô thị lớn hiện nay.
Thứ ba, việc vận dụng những kẽ hở của thể chế, của pháp luật về
việc cấp phép xây dựng và Quản lý trật tự xây dựng đô thị rất dễ bị mua
chuộc, và có nhiều cơ hội để trục lợi cá nhân.
Thứ tư, vì trách nhiệm phải thể hiện vai trò của mình trong công
tác phát triển bộ mặt đô thị và nâng cao chất lượng cuộc sống của người
dân thể hiện sự Quản lý nhà nước đối với mọi mặt đời sống kinh tế xã
hội.
Thứ năm, quản lý trật tự xây dựng làm cho việc phát triển xây
dựng theo một trật tự nhất định đảm bảo tính ổn định và phát triển bền
vững;
26 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 22/02/2022 | Lượt xem: 400 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Quản lý nhà nước về trật tự xây dựng trên địa bàn quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c hiện các thủ tục cấp phép
xây dựng; tăng cường công tác cấp giấy phép xây dựng, nâng cao được
chất lượng cấp giấy phép xây dựng; đổi mới phương pháp tuyên truyền
công khai các thông tin về quy hoạch, Quy chế quản lý quy hoạch kiến
trúc cảnh quan đến các địa bàn dân cư để công dân biết rõ, chấp hành.
- Thứ tư, các ngành chức năng tăng cường công tác thanh tra,
kiểm tra, giám sát trong Quản lý trật tự xây dựng trên địa bàn thị xã đãkịp
thời ngăn chặn, xử lý nghiêm, triệt để các hành vi phạm; cương quyết phá
dỡ, tổ chức cưỡng chế phá dỡ các công trình xây dựng không phép, sai
quy hoạch, sai phép để răn đe, ngăn ngừa các hành vi vi phạm khác.
1.4.1.3. Kinh nghiệm của Thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dƣơng
- Thứ nhất, hình thành và củng cố Tổ quản lý trật tự đô thị cấp
phường, có chính sách ưu đãi, thu hút lực lượng cán bộ, công chức có khả
năng chuyên môn và trách nhiệm tham gia Tổ quản lý trật tự xây dựng đô
thị, nhằm sớm phát hiện và ngăn chặn những hành vị xây dựng trái phép,
gây mất trật tự trong lĩnh vực xây dựng, xây dựng không đúng quy hoạch,
không phép, sai phép, cơ nới vi phạm hàng lang và không gian giao thông
đô thị tại Thị xã Bến Cát.
- Thứ hai, mở rộng và thu hút sự tham gia của người dân vào
quản lý nhà nước về quy hoạch, trật tự xây dựng và cấp phép xây dựng
nhằm nâng cao ý thức của người dân thực hiện quy định của pháp luật về
quản lý xây dựng, tham gia góp ý, đề xuất và phản biện về quy hoạch xây
dựng, sử dụng đất trong xây dựng tại địa bàn.
8
- Thứ ba, công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng,
trên các băng rôn, loa truyền thanh tại các khu phố, tổ dân phố về quy
hoạch, quy định của pháp luật về trật tự xây dựng và quy trình, thủ tục,
thẩm quyền, trách nhiệm cấp phép xây dựng, hành vi vi phạm pháp luật
xây dựng, mức phạt và các hình thức xử lý vi phạm trật tự xây dựng và
cấp phép xây dựng để người dân biết và tự giác thực hiện.
- Thứ tư, rà soát quy hoạch, quy chế quản lý quy hoạch, kiến trúc
theo hướng vừa đảm bảo giải quyết nhu cầu của người dân, doanh nghiệp
xây dựng công trình, kể cả công trình cao tầng nhưng đồng thời cũng phải
đảm bảo giải quyết tốt giao thông, không để xảy ra tình trạng kẹt xe, ùn
tắc giao thông.
- Thứ năm, xây dựng cơ chế, quy chế phối hợp giữa các lực
lượng quản lý trật tự xây dựng, thanh tra xây dựng ở các cấp (Sở Xây
dựng, quận, phường) trong công tác tuần tra, thanh tra, kiểm tra xử lý vi
phạm trật tự xây dựng hiệu lực, hiệu quả.
1.4.2. Một số bài học kinh nghiệm rút ra cho thực tiễn
Từ kinh nghiệm của các địa phương, giá trị rút ra đối với quận
Thủ Đức trong quản lý nhà nước về trật tự xây dựng là:
- Thứ nhất, tăng cường trách nhiệm của Ủy bản nhân dân
phường, Quận trong công tác quản lý nhà nước về trật tự xây dựng trên
địa bàn theo quy định của pháp luật và chỉ đạo của Ủy ban nhân dân
Thành phố. Đảm bảo công tác quản lý nhà nước về trật tự xây dựng được
thực hiện thường xuyên, liên tục, thống nhất, đúng thẩm quyền, phát huy
hiệu quả mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan liên quan trong công tác
quản lý nhà nước về trật tự xây dựng.
- Thứ hai, người đứng đầu Ủy ban nhân dân quận, Phường có
trách nhiệm chỉ đạo bộ phận chuyên môn kiểm tra thường xuyên; chủ
động phối hợp với các đơn vị chức năng thành phố kiểm tra, giám sát tình
hình trật tự xây dựng và xử lý kịp thời các vi phạm trên địa bàn quản lý.
Khi phát hiện vi phạm trật tự xây dựng phải thông tin và phối hợp để thiết
lập hồ sơ xử và lý vi phạm, đề nghị xử lý vi phạm hành chính đối với tổ
chức, cá nhân trong lĩnh vực quản lý trật tự xây dựng đô thị theo quy
hoạch của cấp có thẩm quyền phê duyệt; đôn đốc các tổ chức, cá nhân
chấp hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính.
- Thứ ba, thực hiện công tác kiểm tra thường xuyên đã kịp thời
phát hiện và thiết lập hồ sơ để cấp có thẩm quyền xem xét xử lý vi phạm.
Các hành vi vi phạm trật tự xây dựng đã được lực lượng Thanh tra xây
dựng kịp thời phát hiện, thiết lập hồ sơ xử lý và báo cáo, đề xuất với cấp
có thẩm quyền để xử lý vi phạm theo đúng thẩm quyền, quy trình do
9
pháp luật quy định, thực hiện các biện pháp ngăn chặn có hiệu quả đối
với các công trình vi phạm trật tự xây dựng, kiên quyết xử lý dứt điểm,
triệt để các vi phạm trật tự xây dựng trên địa bàn.
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1
Trong Chương 1, luận văn đã hệ thống, hình thành khung lý thuyết
quản lý nhà nước về trật tự xây dựng.
Hệ thống làm rõ các khái niệm về xây dựng, quản lý xây dựng,
quản lý nhà nước về trậ tự xây dựng, vai trò và đặc điểm quản lý nhà
nước về trật tự xây dựng đô thị, nội dung quản lý nhà nước về trật tự đô
thị với bốn nội dung quản lý theo quy hoạch, cấp phép, thanh, kiểm tra,
khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm hành chính trong trật tự xây dựng, kinh
nghiệm và bài học quản lý nhà nước về trật tự đối với quận Thủ Đức, đây
là nền tảng để phân tích thực trạng và đề xuất các giải pháp hoàn thiện ở
các chương tiếp theo.
CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ TRẬT TỰ XÂY
DỰNG TẠI QUẬN THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1. Điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế - xã hội tác động đến QLNN
về TTXD tại quận Thủ Đức, TP.HCM
2.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
Thủ Đức sau ngày 30-4-1975 là huyện ngoại thành, nằm ở phía
Đông – Bắc thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1997, huyện Thủ Đức được
phân chia thành 3 quận: Quận 2, Quận 9 và quận Thủ Đức theo Nghị định
03/CP của Chính phủ ban hành ngày 6-1-1997. Quận Thủ Đức mới có
diện tích 47,76 km2, bao gồm diện tích và dân số của các xã Linh Đông,
Linh Trung, Tam Bình, Tam Phú, Hiệp Bình Phước, Hiệp Bình Chánh,
thị trấn Thủ Đức, một phần diện tích và nhân khẩu của các xã Hiệp Phú,
Tân Phú và Phước Long. Sau khi trở thành quận, các xã đều đổi tên thành
phường. Quận Thủ Đức có 12 phường gọi tên theo xã trước đây: Linh
Đông, Linh Tây, Linh Chiểu, Linh Trung, Linh Xuân, Hiệp Bình Chánh,
Hiệp Bình Phước, Tam Phú, Trường Thọ, Bình Chiểu, Bình Thọ, Tam
Bình; dân số tính đến nay là khoảng 592.000 người. Mật độ là 12.385
người/1km2.
2.1.2. Tình hình phát triển kinh tế - xã hội
Về Kinh tế:
- Lĩnh vực sản xuất kinh doanh
10
Tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định, bình quân đạt 8,5% (vượt 1,5%
so với chỉ tiêu Nghị quyết là 7% - 8%). Đến năm 2020 đạt 19.580 tỷ/
17.100 tỷ đồng (theo giá so sánh 2010). Trong đó, ngành công nghiệp - xây
dựng tăng 5,6% (chỉ tiêu 5%), ngành dịch vụ - thương mại tăng 13,1% (chỉ
tiêu 12%). Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực, đạt mục tiêu định hướng đề
ra.
- Tình hình thu, chi ngân sách
Kinh tế tăng trưởng gắn với giải pháp nuôi dưỡng nguồn thu, chống
thất thu, kiểm soát chặt nợ đọng, góp phần tạo nguồn thu ngân sách trên địa
bàn hằng năm đều đạt và vượt chỉ tiêu pháp lệnh Thành phố giao, tốc độ
thu tăng bình quân khoảng 7,3%/năm. Tính đến năm 2019, thu ngân sách
Nhà nước theo phân cấp (không tính nguồn thu từ tiền sử dụng đất) đã đạt
1.972,2 tỷ đồng và đến năm 2020 đạt 2.112 tỷ đồng theo chỉ tiêu pháp lệnh
Thành phố giao, so với chỉ tiêu Nghị quyết đề ra vượt 62,46% (1.300 tỷ
đồng).
Về xã hội: Các hoạt động văn hóa cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ chính trị và đời sống xã hội ở dân cư.
2.1.3. Tình hình kinh tế xã hội tác động đến QLNN về TTXD
tại quận Thủ Đức, TP.HCM
- Thứ nhất, lực lượng lao động và dân số trên địa bàn tăng nhanh,
nhu cầu xây dựng nhà ở tăng nhanh, ảnh hưởng rất lớn đến quy hoạch
phát triển nhà ở và cảnh quan phát triển đô thị, sự tác động này đã phá vỡ
dự kiến quy hoạch đô thị tại quận Thủ Đức.
- Thứ hai, kinh tế tăng nhanh, đời sống một bộ phận dân cư có
nhu cầu cơi nới, chỉnh trang và sửa chữa nhà ở tạo ra áp lực rất cao cho
công tác quản lý trật tự xây dựng trên địa bàn quận.
- Thứ ba, nhu cầu nhà ở tăng cao, kéo theo yêu cầu các công
trình nhà văn hóa, trường học, mẫu giáo, nhà trẻ, bệnh viện, siêu thị, công
viên, nhà thể thao, các công trình phụ trợ khác phục vụ dân sinh, cũng
làm tăng áp lực, tác động đối với quản lý nhà nước về đô thị, trong đó,
đối với quản lý nhà nước về trật tự xây dựng tại quận Thủ Đức.
- Thứ tư, một bộ phận người dân có tâm lý nôn nóng, chưa hiểu
biết đầy đủ về các quy định của pháp luật về cấp phép xây dựng, nên tự
phát, có hành vi vi phạm quy định về cấp phép xây dựng, tình trạng xây
dựng tự do, không phép, trái phép liên tục diễn ra, thậm chí có trường hợp
cố tình xây dựng không phép vào ban đêm, hoặc công trình bị xử phạt vẫn
cố tình vi phạm bất chấp quy định của pháp luật và xử phạt của cơ quan có
thẩm quyền.
11
- Thứ năm, theo quy định hiện hành, chế tài xử lý vi phạm xây
dựng còn nhẹ, các công trình bị xử phạt theo hướng cho tồn tại, nên chưa
đủ mức độ răn đe chủ công trình và chủ đầu tư, nên các hành vi vi phạm
trong quản lý nhà nước đối với trật tự xây dựng trên địa bàn quận vẫn
diễn ra, chưa có các biện pháp xử lý có hiệu quả, gây bức xúc trong dư
luận người dân, tạo ra khoảng trống giữa pháp luật và thực hiện pháp luật
về trật tự xây dựng.
- Thứ sáu, tác động vào quản lý nhà nước về trật tự xây dựng tại
quận Thủ Đức còn thể hiện sự yếu kém về chuyên môn, nghiệp vụ của
công chức làm công tác cấp phép và thanh tra xây dựng, thủ tục hành
chính còn rườm rà trong khâu cấp phép xây dựng, thái độ của công chức
thiếu trách nhiệm, thờ ơ, có khi còn nhũng nhiễu vòi vĩnh người dân khi
người dân và tổ chức đến giao dịch xin cấp phép xây dựng, hoặc có hiện
tượng tiếp tay, thông đồng, thiếu kiên quyết đối với các hành vi vi phạm
trật tự xây dựng, kể cả đối với không phép và có phép xây dựng trên địa
bàn.
- Thứ bảy, tác động đối với trật tự xây dựng còn thể hiện ở sự còn
nhiều bất cập, không hiệu quả trong phối kết hợp giữa các cơ quan hữu
quan trong lĩnh vực quản lý nhà nước về trật tự xây dựng (quận với Sở,
ngành của Thành phố), giữa các cơ quan thuộc UBND quận với UBND
các phường; UBND các phường với nhau và với cơ quan cấp trên.
2.2. Phân tích thực trạng QLNN về TTXD tại quận Thủ Đức,
TP.HCM
2.2.1. Tình hình trật tự xây dựng tại quận Thủ Đức,
TP.HCM
Công tác quản lý nhà nước trên lĩnh vực đô thị có sự tập trung; kịp
thời quán triệt sâu rộng và thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các nghị
quyết, chỉ thị của cấp trên, của quận đối với công tác quản lý đất đai và trật
tự xây dựng.Tổ chức nhiều đợt vận động, kiểm tra, xử lý nghiêm các hành
vi vi xây dựng trên địa bàn. Phát huy hiệu quả ứng dụng “Đô thị Thủ Đức”
trên hệ thống mạng internet và thiết bị di động, tạo cầu nối để người dân
kịp thời phản ánh các hành vi vi phạm quy định về trật tự đô thị, trật tự xây
dựng, vệ sinh môi trường đến các cơ quan chức năng để kiểm tra, xử lý
theo quy định.
2.2.2. Tổ chức thực hiện hệ thống văn bản QLNN về TTXD
Công tác QLNN về TTXD trên địa bàn quận được lãnh đạo quận
ủy, Ủy ban nhân dân quận chỉ đạo, đôn đốc, nhắc nhở; ban hành nhiều văn
bản chỉ đạo, đôn đốc, nhắc nhở trong quá trình tổ chức thực hiện.
2.2.3. Tổ chức bộ máy và nguồn nhân lực QLNN về TTXD
12
Tham mưu chính cho Ủy ban nhân dân quận Thủ Đức là phòng
quản lý đô thị quận, Chức năng của phòng quản lý đô thị được quy định
tại khoản 1 Điều 5 Thông tư liên tịch 07/2015/TTLT-BXD-BNV hướng
dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan
chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung
ương, Ủy ban nhân dân quận, Thành phố về các lĩnh vực quản lý nhà
nước thuộc ngành Xây dựng do Bộ trưởng Bộ Xây dựng - Bộ Nội vụ.
2.2.4. Tuyên truyền, phổ biến pháp luật về trật tự xây dựng
Thời gian qua, công tác tuyên truyền phổ biến, pháp luật đã được
Hội đồng tuyên truyền giáo dục pháp luật của quận quan tâm thực hiện.
Trên cơ sở kế hoạch tuyên truyền hàng năm các thành viên Hội đồng
tuyên truyền giáo dục pháp luật của quận triển khai thực hiện phù hợp với
từng đối tượng, từng loại hình, điều kiện hoạt động tại đơn vị.
2.2.5. Quản lý nhà nƣớc về trật tự xây dựng theo quy hoạch
Quy hoạch là nhiệm vụ làm thay đổi bộ mặt đô thị không chỉ ở
hình thức bố cục không gian kiến trúc bên ngoài mà còn phải liên tục đổi
mới và phát triển hài hòa với thực tiễn cuộc sống.
2.2.6. Quản lý nhà nƣớc về TTXD theo giấy phép xây dựng
Căn cứ vào các quy định pháp luật hiện hành, đặc biệt là các văn
bản: Luật Xây dựng số 50/2014/QH13, ngày 18/6/2014; Thông tư số
15/2016/TT-BXD, ngày 30/06/2016 của Bộ Xây dựng Hướng dẫn về cấp
giấy phép xây dựng.
2.2.7. Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử
lý vi phạm hành chính trong xây dựng
Công tác kiểm tra, xử lý các hành vi vi phạm được triển khai
thực hiện thường xuyên với sự tham gia của lực lượng phường và các lực
lượng chức năng của quận và chấn chỉnh và xử lý nghiêm (nếu có vi
phạm) nhằm đảm bảo trật tự xây dựng và mỹ quan đô thị.
2.3. Đánh giá chung QLNN về TTXD tại quận Thủ Đức, TP.HCM
2.3.1. Kết quả đạt đƣợc
Trong thời gian qua, công tác QLNN về TTXD trên địa bàn quận
Thủ Đức đã đạt được một số kết quả sau đây:
- Thứ nhất, quận Thủ Đức đã chú trọng công tác ban hành và tổ
chức thực hiện các văn bản QLNN về TTXD. Hằng năm UBND quận
đều ban hành và chỉ đạo phòng quản lý đô thị xây dựng các kế hoạch,
chương trình QLNN về trật tự xây dựng trên địa bàn quận. UBND quận
đã tăng cường chỉ đạo và thực hiện công tác QLNN về TTXD trên địa
bàn. Quận Thủ Đức đã có nhiều thành tựu đáng kể về quản lý đô thị nói
chung, quản lý trật tự xây dự nói riêng;
13
- Thứ hai, trong công tác QLNN về TTXD của UBND quận đã
tăng cường phối hợp với Sở Xây dựng và Sở quy hoạch đô thị. Ngoài ra,
UBND quận còn chỉ đạo phòng quản lý đô thị phối hợp chặt chẽ với
UBND các phường trên địa bàn trong công tác QLNN về trật tự xây
dựng;
- Thứ ba, đội ngũ CBCC làm công tác QLNN về TTXD trên địa
bàn quận từng bước được nâng lên cả về năng lực và phẩm chất. Đội ngũ
CBCC nắm bắt tốt địa bàn quản lý, có những tham mưu và đề xuất cho
lãnh đạo quận một cách kịp thời. Chất lượng của đội ngũ cán bộ công
chức được nâng cao hơn trước, cả về phẩm chất đạo đức, chính trị đến
trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Qua đó, đã đáp ứng tương đối tốt nhu
cầu, nhiệm vụ được phân công;
- Thứ tư, UBND quận đã chỉ đạo các cơ quan nhà nước trên địa
bàn quận tăng cường tuyên truyền, phổ biến các pháp luật, chính sách,
chương trình, quy hoạch về xây dựng đến các cá nhân, tổ chức trên địa
bàn quận;
- Thứ năm, công tác tổ chức cấp phép được thực hiện tuân thủ
chặt chẽ các quy định pháp luật. Bên cạnh đó, quận đã chủ động cải cách
thủ tục hành chính trong hoạt động cấp phép. Trong quá trình cấp phép,
phòng quản lý đô thị đã phối hợp chặt chẽ với UBND các phường kiểm
tra các điều kiện cấp phép;
- Thứ sáu,vi phạm về trật tự xây dựng đô thị được giải quyết kịp
thời, số vụ vi phạm nghiêm trọng đã giảm bớt. Việc tiếp nhận, xử lý
thông tin phản ánh của nhân dân về vi phạm trật tự xây dựng, vi phạm đất
đai và trật tự đô thị được xử lý kịp thời, hạn chế những trường hợp khiếu
kiện khiếu nại, tạo sự an tâm và tin tưởng của người dân;
- Thứ bảy, ý thức của người dân ở đô thị ngày càng được nâng
cao, có sự hiểu biết nhất định đối với các vấn đề có liên quan đến quản lý
nhà nước về trật tự xây dựng đô thị như: quy hoạch đô thị, quy hoạch sử
dụng đất, lộ giới quy hoạch, chỉ giới xây dựng, giấy phép xây dựng.
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân
2.3.2.1. Hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình quản lý nhà nước về
trật tự xây dựng trên địa bàn quận Thủ Đức vẫn còn những tồn tại hạn
chế:
- Một là, công tác ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản
QLNN về trật tự xây dựng:
- Hiện nay trong công tác QLNN về trật tự xây dựng trên địa bàn
quận Thủ Đức chủ yếu dựa trên các văn bản của Trung ương và Tp. Hồ
14
Chí Minh là chủ yếu. Việc ban hành các văn bản QLNN gắn với điều
kiện của Thủ Đức chưa được quan tâm đúng mức. Ngoài ra, UBND quận
cũng chưa có những kế hoạch, chương trình cụ thể để triển khai thực hiện
các nội dung QLNN về trật tự xây dựng trên địa bàn quận.
- Hai là, về tổ chức bộ máy và nhân sự:
- Mặc dù đã có cơ chế phối hợp, tuy nhiên trong thực tế sự phối
hợp giữa UBND quận với sở Xây dựng và sở Quy hoạch - Kiến trúc là
chưa thực sự chặt chẽ, nhất là trong công tác quy hoạch về đô thị. Bên
cạnh đó, sự phối hợp giữa Phòng Quản lý đô thị với UBND các phường
cũng chưa thực sự nhịp nhàng nhất là trong công tác cấp phép cũng như
quá trình thanh tra, kiểm tra và xử lý đối với các công trình sai phạm.
Bên cạnh đó, một bộ phận cán bộ công chức trong công tác
QLNN về TTXD còn bộc lộ những hạn chế về năng lực và phẩm chất.
Một số CBCC chưa nắm rõ địa bàn quản lý, chưa nắm rõ các quy định
pháp luật có liên quan. Trong quá trình vận dụng các quy định pháp luật
còn tỏ ra lúng túng. Một số CBCC còn buông lỏng, thiếu kinh nghiệm xử
lý các tình huống như cưỡng chế, vận động, đối thoại, xử lý khiếu nại.
- Ba là, công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật:
- Việc tuyên truyền, phổ biến các quy định pháp luật về xây
dựng đến các cá nhân, tổ chức trên địa bàn còn chưa tiến hành thường
xuyên và đồng bộ. Một số nơi thực hiện còn mang tính hình thức, đối
phó, hiệu quả chưa cao, chưa đi vào chiều sâu, chưa tạo được hiệu ứng.
Vì vậy, chưa tạo ra những chuyển biến tích cực trong nhận thức và việc
chấp hành pháp luật của các cá nhân, tổ chức. Mặt khác, công tác tuyên
truyền, phổ biến tiến hành chưa đa dạng, phong phú và chưa thu hút được
nhiều chủ thể tham gia.
- Bốn là,Về quản lý nhà nước về trật tự xây dựng theo quy
hoạch:
Trong công tác lập quy hoạch xây dựng còn bị động, chưa đồng
bộ với quy hoạch phát triển ngành và phát triển kinh tế-xã hội khiến một
số đồ án quy hoạch bị kéo dài, như một số các đồ án quy hoạch liên quan
đến đường dự phóng, quy hoạch hẻm giới, lộ giới,..
15
- Năm là, Về quản lý nhà nước cấp giấy phép xây dựng:
- Kết quả quản lý nhà nước về xây dựng đối với cấp phép xây
dựng đã nêu trên tăng hàng năm nhưng con số đó vẫn còn hạn chế rất
nhiều đối với một quận đang phát triển cao như quận Thủ Đức.
- Sáu là, Về công tác thanh tra, kiểm tra xây dựng:
- Hiện nay, tất cả các quận, huyện thuộc TP.HCM đều thiếu
thanh tra viên xây dựng.
- Bảy là, Về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực trật tự
xây dựng:
- Trong tiến trình hoàn thiện thể chế hiện nay ở nước ta trong
lĩnh vực xây dựng đã tạo ra những khoảng trống trong sử dụng công cụ
pháp luật cũng là một nguyên nhân quan trọng ảnh hưởng đến quản lý
nhà nước về trật tự xây dựng. Việc thường xuyên thay đổi những quy chế
mới, tổ chức bộ máy và chức năng nhiệm vụ của thanh tra xây dựng, tiêu
chuẩn mới về định mức, tiêu chuẩn mới về đơn giá hay hình thức xử lý vi
phạm trong lĩnh vực xây dựng. Khiến việc thẩm định hồ sơ và tính toán
chi phí xây dựng cho từng công trình và hạng mục công trình của các chủ
đầu tư phải tính lại nhiều lần, gây mất thời gian và tăng chi phí.
2.3.2.2. Nguyên nhân hạn chế
- Thứ nhất, từ công tác quản lý quy hoạch, điều chỉnh quy
hoạch, triển khai quy hoạch và việc đầu tư hạ tầng còn chậm không đủ
cung ứng:
Quy định thời gian điều chỉnh quy hoạch chung xây dựng không
theo kịp. Quy hoạch chi tiêu quy hoạch sử dụng đất khá cứng nhắc bất
cấp với quy hoạch xây dựng, quy hoạch chung đinh hướng và quy hoạch
của các ngành; Vướng quy hoạch, không chuyển mục đích sử dụng đất,
nên không thể xin phép xây dựng; Quy hoạch sử dụng đất, nhiều dự án
chậm triển khai dự án “treo”), nên việc chuyển mục đích sử dụng đất, xin
phép xây dựng của người dân gặp nhiều khó khăn. Các quy định về mật
độ xây dựng, tách thửa, quy hoạch xây dựng, lộ giới đường chưa phù hợp
đã ảnh hưởng đến nhu cầu xây dựng của người dân.
- Thứ hai, do hoạt động đầu cơ làm tăng giá đất và thị trường
nhà ở với giá bình dân, giá thấp còn quá ít gây khó khăn cho người thu
nhập thấp tạo lập nhà ở:
Giá đất hiện nay quá cao do yếu tố đầu cơ làm tăng giá đất. Cơn
sốt đất do giới đầu cơ, môi giới tác động quá sâu vào thị trường làm thay
đổi tâm lý của người mua, đầu tư, đầu cơ nhà đất. Chính do giá đất tăng
quá cao những người thu nhập thấp khó tiếp cận được và chỉ còn cách phải
tìm các dạng nhà, đất không có hạ tầng hoặc chưa hợp thức hóa, với giá giá
16
rẻ, để tạo lập nhà ở; Thực tế, số lượng nhà ở xã hội cung ứng cho các đối
tượng nghèo, thu nhập thấp, tái định cư chưa có nhà... hiện nay còn quá ít,
nên chưa đáp ứng nhu cầu. Các hộ dân phải tự tìm kiếm nhà giá rẻ ở khu
vực quận mới và ngoại thành, dẫn đến hiện tượng nhà không phép.
- Thứ ba, Quy định từ các văn bản pháp lý của Trung ương và
Thành phố chưa phù hợp:
Quy định từ Quyết định tách thửa đất đối với diện tích tối thiểu
của Thành phố; việc triển khai các Nghị định gặp khó, bất Thông thường
các Quận, Huyện thường xử lý theo Nghị định 102/2014/NĐ-CP có hiệu
lực 25/12/2014 về xử phạt hành chính trong lĩnh vực đất đai, sau này thì
thay thế thành Nghị định 105 hiện nay là Nghị đinh 91 về hướng dẫn thi
hành Luật đất đai năm 2014 về xử phạt hành chính trong lĩnh vực đất đai
vẫn còn nhiều bất cập.
- Thứ tư, hạn chế trong việc cấp phép xây dựng so với nhu cầu
và quy hoạch được duyệt:
Nguyên nhân do quy hoạch sử dụng đất lại không phù hợp, không
đủ điều kiện để cấp giấy phép xây dựng. Tồn tại tình trạng nhà 3 chung,
chung số nhà, chung giấy chứng nhận, chung chủ thể): nhà phân chia kiến
trúc bên trong thành nhiều căn nhà nhỏ để mua bán lại. Loại hình này mặc
dù phù hợp với quy hoạch nhưng lại không phù hợp về chỉ tiêu dân số, điều
kiện tách thửa và không được công nhận; Chưa thực hiện hiệu quả mục
tiêu đơn giản hóa về thủ tục; cải tiến quy trình giải quyết theo hướng liên
thông, rõ ràng, minh bạch và công khai để tạo điều kiện thuận lợi cho cá
nhân, tổ chức và doanh nghiệp trong việc xin cấp giấy phép xây dựng.
- Thứ năm, Bộ máy và quy trình kiểm tra giám sát chưa phù
hợp:
Nhìn chung, quy chế phối hợp quản lý trật tự xây dựng chưa quy
định rõ một số nội dung về trách nhiệm phối hợp kiểm tra giữa các cơ
quan, đơn vị có liên quan; trách nhiệm trong kiểm tra, xử lý vi phạm trật
tự xây dựng. Việc trao đổi thông tin xử lý công trình vi phạm trật tự xây
dựng, tổng hợp số liệu hàng tháng để cập nhật và báo cáo giữa Thanh tra
Sở Xây dựng, Phòng Quản lý đô thị và UBND phường chưa thực hiện
tốt.Trong một số trường hợp, quan điểm xử lý công trình vi phạm giữa
Đội Thanh tra địa bàn quận, huyện với UBND quận, phường chưa thống
nhất, làm giảm hiệu lực, hiệu quả QLNN. Tỷ lệ chấp hành các Quyết định
xử lý vi phạm hành chính còn thấp, do nhiều nguyên nhân khách quan và
chủ quan.
Nhân sự phụ trách công tác quản lý trật tự xây dựng mỏng, yếu
lại phải kiêm nhiều công tác; công tác phối hợp tuần tra, kiểm tra giữa
17
Thanh Tra Sở Xây Dựng (Đội thanh tra địa bàn quận) với các đơn vị
UBND các Phường chưa đồng bộ, chặt chẽ; việc phát hiện xử lý ngay từ
đầu các công trình vi phạm trên địa bàn còn chậm, chưa kịp thời...
- Thứ sáu, việc thanh tra, kiểm tra, buông lỏng địa bàn, xử lý vi
phạm thiếu cương quyết, còn để xẩy ra tình trạng xây dựng nhà ở và
công trình trên đất nông nghiệp:
Tình hình vi phạm trật tự xây dựng tại địa phương còn phức tạp,
do công tác kiểm tra giữa Thanh tra Sở Xây dựng và UBND phường và
quận còn hạn chế; Thực tế, mặc dù là đất nông nghiệp nhưng nhiều diện
tích không còn canh tác được, đan xen đất phi nông nghiệp manh múm,
nhỏ lẻ. Việc xin chuyển mục đích sử dụng đất tạm thời có thời hạn của
người dân để khai thác, tạo thu nhập giải quyết khó khăn hoặc là việc hoán
đổi mặt bằng kinh doanh, nên tình trạng người dân săn sằng liều để vi
phạm xây dựng, vi phạm sử dụng đất đất nông nghiệp để kinh doanh hoặc
để ở nên bất chấp pháp luật và chính quyền.
Thực tế, đã có một người vừa vi phạm vi phạm đất đai, vi phạm
xây dựng và vi phạm trong hoạt động kinh doanh dẫn đến tình trạng tăng
lượng hồ sơ vi phạm và việc ngăn chặn, ngăn ngừa vẫn diễn biến phức
tạp.
- Thứ bảy, công tác vận động, tuyên truyền, phổ biến pháp luật
trong quản lý nhà nước về trật tự xây dựng còn hạn chế, đội ngũ cán
bộ công chức còn ít cả về số lượng và chất lượng,kinh nghiệm xử lý:
Việc tuyên truyền pháp luật còn bị động và phù thuộc vào các
ngành, các cấp, kinh phí, còn chậm đổi mới hình thức tổ chức. Viêc tổ
chức chưa bao quát, chưa kịp thời chưa thường xuyên và chưa đi sâu vào
trong tâm, chưa phối hợp, sự kiểm tra giám sát chưa cụ thể của các đoàn
thể và chính quyền; Nhân sự phụ trách công tác QLNN về TTXD mỏng
và yếu lại phải kiêm nhiều công tác; công tác phối hợp tuần tra, kiểm tra
giữa Thanh Tra Sở Xây Dựng (Đội thanh tra địa bàn quận) với các đơn vị
UBND các phường chưa đồng bộ, chặt chẽ;
Việc phát hiện xử lý ngay từ đầu các công trình vi phạm trên
địa bàn con chậm, chưa kịp thời..kỷ năng tham mưu giải quyết khiếu nại,
tố cáo và tổ chức cưỡng chế phá dỡ công trình còn lúng túng, chưa khoa
học,;
Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của một bộ phận CBCC còn
hạn chế, còn để
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_van_quan_ly_nha_nuoc_ve_trat_tu_xay_dung_tren_d.pdf