Đối với nhóm người lao động di trú: Trong thời gian tới, ngoài
các quy định đã được ghi nhận trong BLDS 2015 thì pháp luật chuyên
ngành, đặc biệt là Bộ luật Lao động cùng các văn bản hướng dẫn cần
có sự rà soát toàn diện, sửa đổi bổ sung cho phù hợp, đặc biệt cần lưu
ý đối với quy định liên quan tới nhóm lao động nước ngoài làm việc
tại Việt Nam (lao động di trú tại Việt Nam) và những quyền nhân thân
của họ.
Đối với nhóm người nhiễm HIV/AIDS: Bộ luật Dân sự 2015
nói chung, Luật phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm
miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) 2006 nói riêng và các văn
bản hướng dẫn thi hành cần tiếp tục hoàn thiện theo hướng đảm bảo
tôn trọng quyền con người, chú trọng các giải pháp mang tính xã hội
nhằm giảm tác hại do HIV/AIDS gây ra, góp phần vào sự ổn định và
phát triển đất nước
27 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 08/03/2022 | Lượt xem: 398 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Quyền nhân thân của nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xã hội.
Chương 2: Quy định của pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành về
quyền nhân thân của nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội.
Chương 3: Thực tiễn vận dụng và bảo vệ quyền nhân thân của
nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội.
Chương 4: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật
về quyền nhân thân của nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội.
4
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN NHÂN THÂN
CỦA NHÓM NGƯỜI DỄ BỊ TỔN THƯƠNG TRONG XÃ HỘI
1.1. Khái quát chung về nhóm người dễ bị tổn thương trong
xã hội
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm nhóm người dễ bị tổn thương
trong xã hội
“Nhóm người dễ bị tổn thương là những con người yếu thế,
có nguy cơ bị xâm phạm và/hoặc dễ bị bỏ quên các quyền về con
người; và họ cần được chú ý bảo vệ đặc biệt so với những nhóm, cộng
đồng người khác trong xã hội”
Từ phân tích định nghĩa về nhóm người dễ bị tổn thương nêu
trên có thể đưa ra các đặc điểm của nhóm như sau:
- Có vị thế về chính trị, xã hội hoặc kinh tế thấp hơn
- Do thể chất chưa phát triển hoặc do giới tính tự nhiên
- Có nguy cơ cao bị bỏ quên hay bị coi thường, bị vi phạm
các quyền con người, cần được bảo vệ đặc biệt so với nhóm cộng đồng
khác
1.1.2. Phân loại nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội
1.1.2.1. Phụ nữ
Phụ nữ là nhóm đông nhất trong các nhóm người dễ bị tổn
thương trong xã hội (do hơn một nửa nhân loại là phụ nữ) nên vấn đề
của phụ nữ thu hút sự quan tâm rất lớn của cộng đồng quốc tế.
1.1.2.2. Trẻ em
Trẻ em được coi là một trong nhóm xã hội dễ bị tổn thương nhất,
5
được nhà nước, xã hội quan tâm bảo vệ. Trẻ em là những con người nhưng
là một nhóm xã hội dễ bị tổn thương, có những nhu cầu đặc biệt, và có
quyền được hưởng sự chăm sóc, bảo vệ một cách đặc biệt
1.1.2.3. Người sống chung với HIV/AIDS
Hiện nay, nhận thức của nhân loại về cơ chế lây nhiễm HIV đã
được nâng cao. Bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người của những
người sống chung với HIV/AIDS là một yếu tố cấu thành trong việc
phòng chống sự lây truyền của HIV/AIDS.
1.1.2.4. Người khuyết tật
Người khuyết tật được coi là một trong những nhóm thiểu số
lớn nhất thế giới và cũng là một trong những nhóm dễ bị tổn thương
nhất, vì tình trạng khuyết tật khiến họ phải chịu những thiệt thòi ở mọi
mặt của đời sống xã hội.
1.1.2.5. Người lao động di trú
Những người lao động di trú được xem là có giấy tờ hợp pháp
khi họ được phép vào, ở lại và tham gia làm một công việc được trả
lương tại quốc gia, nơi có việc làm theo pháp luật quốc gia đó và theo
những hiệp định quốc tế mà quốc gia đó là thành viên. Những người
lao động di trú được xem là không có giấy tờ hợp pháp khi họ không
đáp ứng được các điều kiện đã nêu.
1.1.2.6. Người thiểu số
“Người thiểu số, là người vì đặc điểm thể chất hoặc văn hóa
của họ, bị tách ra khỏi những người khác trong xã hội nơi họ sống vì
sự đối xử khác biệt và bất bình đẳng, và do đó họ coi mình là đối tượng
của tập thể phân biệt đối xử ". Có thể nhận thấy rằng, định nghĩa nà
6
bao gồm cả tiêu chí khách quan và chủ quan: tư cách thành viên của
một nhóm thiểu số được xã hội quy định một cách khách quan, dựa
trên các đặc điểm thể chất hoặc hành vi của một cá nhân; nó cũng được
các thành viên của nó áp dụng một cách chủ quan, những người có thể
sử dụng trạng thái của họ làm cơ sở cho bản sắc nhóm hoặc sự đoàn
kết.
1.2. Khái niệm quyền nhân thân của nhóm người dễ bị tổn
thương trong xã hội
“Nếu hiểu theo nghĩa khách quan thì quyền nhân thân của
nhóm người dễ bị tổn thương được hiểu là tổng hợp các quy phạm pháp
luật do Nhà nước ban hành, trong đó quy định rõ các cá nhân bao gồm
cả nhóm người dễ bị tổn thương có những quyền nhân thân nào chung
gắn với bản thân họ như những công dân khác cũng như các quy phạm
đặc thù gắn với tính chất đặc biệt của nhóm chủ thể này và đấy là cơ
sở để cá nhân người dễ bị tổn thương thực hiện quyền của mình. Còn
nếu hiểu theo nghĩa chủ quan thì quyền nhân thân của nhóm người dễ
bị tổn thương chính là quyền dân sự chủ quan gắn liền với mỗi cá nhân,
mỗi người thuộc nhóm người dễ bị tổn thương do Nhà nước quy định
cho mỗi cá nhân thuộc nhóm người dễ bị tổn thương và không thể
chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác”.
1.3. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc ghi nhận và đảm bảo
quyền nhân thân của nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội
1.3.1. Cơ sở lý luận của việc ghi nhận và đảm bảo quyền
nhân thân của nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội
7
Thứ nhất, về quyền của nhóm – những nhận thức cơ bản
Mặc dù chủ thể chính của quyền con người nói chung là các cá
nhân, nên khi nói đến quyền con người về cơ bản là nói đến các quyền
cá nhân (individual rights).
Thứ hai, tầm quan trọng của việc thừa nhận và bảo đảm các
quyền của nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội
Ở mỗi quốc gia và khu vực, do những nguyên nhân xã hội, lịch
sửluôn tồn tại những nhóm người có trình độ phát triển, vị thế và
năng lực khác nhau. Mặc dù vậy, tất cả đều là thành viên của cộng đồng
nhân loại, đều bình đẳng về các quyền và tự do của con người, bao gồm
quyền nhân thân của họ.
1.3.2. Cơ sở thực tiễn của việc ghi nhận và đảm bảo quyền
nhân thân của nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội
Vấn đề bảo vệ quyền con người và quyền nhân thân của nhóm
người dễ bị tổn thương phải bắt đầu từ việc nhận thức cho đến hành
động trên thực tế. Từ điểm đầu của nhận thức cho đến trở thành hiện
thực thực thi trên thực tế có rất nhiều công đoạn khác nhau, từ nhận
thức, quy định thành pháp luật đến thực thi, phán xử.
1.4. Sơ lược lịch sử phát triển của pháp luật dân sự Việt
Nam về quyền nhân thân của nhóm người dễ bị tổn thương trong
xã hội
1.4.1. Tư tưởng và sự phát triển về quyền nhân thân của
nhóm người dễ bị tổn thương ở Việt Nam trước năm 1995
Trong thời kỳ phong kiến, từ thời đại nhà Lý, Trần có Đại Việt
sử ký toàn thư (1042), hay Triều Trần nổi tiếng với Hội nghị Diên Hồng
8
(1284) thể hiện tính nhân đạo rất cao.
1.4.2. Quyền nhân thân của nhóm người dễ bị tổn thương ở
Việt Nam theo quy định của Bộ luật dân sự năm 1995
Chỉ tính từ năm 1986 đến năm 2005, Việt Nam đã ban hành
trên 13.000 văn bản pháp luật các loại, trong đó có hơn 40 bộ luật và
luật, trên 120 pháp lệnh, gần 850 văn bản của Chính phủ và trên 3.000
văn bản pháp quy của các Bộ, ngành
1.4.3. Quyền nhân thân của nhóm người dễ bị tổn thương ở
Việt Nam theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2005
BLDS năm 2005 thông qua ngày 14/6/2005, có hiệu lực ngày
01/01/2006, có nhiệm vụ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân,
tổ chức, lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng; bảo đảm sự bình đẳng
và an toàn pháp lý trong quan hệ dân sự, góp phần tạo điều kiện đáp
ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân, thúc đẩy sự phát triển
kinh tế - xã hội.
1.4.4. Quyền nhân thân của nhóm người dễ bị tổn thương ở
Việt Nam theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015
Qua 2 lần sửa đổi, chế định quyền nhân thân trong BLDS năm
2015 đã được hoàn thiện và có nhiều quy định cụ thể so với BLDS năm
2005 để giải quyết các vấn đề bất cập từ thực tiễn cũng như yêu cầu cụ thể
hóa Hiến pháp năm 2013 về việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm
quyền con người, quyền công dân về dân sự nói chung, quyền của nhóm
người dễ bị tổn thương trong xã hội nói riêng.
1.5. Pháp luật quốc tế về quyền nhân thân của nhóm người
dễ bị tổn thương trong xã hội
9
1.5.1. Quyền nhân thân của phụ nữ
Công ước CEDAW là một trong 9 công ước quốc tế quan trọng
nhất hiện nay về quyền con người của Liên hợp quốc. Tuy nhiên,
CEDAW không xác lập các quyền con người mới cho phụ nữ, Công ước
đề ra những các thức, biện pháp nhằm loại trừ sự phân biệt đối xử chống
lại phụ nữ trong việc hưởng thụ các quyền con người mà họ đã được thừa
nhận trong những điều ước quốc tế trước đó
1.5.2. Quyền nhân thân của trẻ em
CRC là điều ước quốc tế về quyền con người của Liên hợp
quốc, đồng thời là văn kiện quốc tế cơ bản và toàn diện nhất về quyền
trẻ em. CRC được xây dựng trên cơ sở của bốn nguyên tắc nền tảng
1.5.3. Quyền nhân thân của những người sống chung với
HIV/AIDS
Quyền nhân thân nói riêng, quyền con người nói chung của
những người sống chung với HIV/AIDS chưa được quy định trong
Điều ước quốc tế, mà chỉ được ghi nhận trong một số văn kiện tiêu biểu
như: Tuyên bố về Những hành động then chốt để tiếp tục thực hiện
Chương trình Hành động của Hội nghị quốc tế về Dân số và phát triển
(1999);
1.5.4. Quyền nhân thân của người khuyết tật
Công ước quốc tế về quyền của những người khuyết tật
(ICRPD) được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua vào tháng 3 năm
2007. Đây là điều ước quốc tế đầu tiên về quyền con người của Liên
hợp quốc trong thế kỷ XXI, đánh dấu một bước ngoặt trong cuộc đấu
tranh cho quyền của những người khuyết tật trên thế giới
10
1.5.5. Quyền nhân thân của người lao động di trú
Hiện nay, trên thế giới có hàng trăm văn kiện quốc tế được
thông qua trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập đến quyền và bảo vệ quyền
của người lao động di trú. Một số công ước có liên quan của ILO như:
Công ước số 97 về di trú tìm việc làm (sửa đổi), 1949; Công ước số
143 về người lao động di trú (các điều khoản bổ sung), 1975;
1.5.6. Quyền nhân thân của người thiểu số
Năm 1948, Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị
(ICCPR) đã được bổ sung thêm những điều khoản riêng về quyền của
người thiểu số cũng như thông qua Tuyên bố về quyền của những
người thuộc nhóm thiểu số về dân tộc, chủng tộc, tôn giáo hoặc ngôn
ngữ năm 1992 – đây là những văn kiện mà hiện nay đang đóng vai trò
nền tảng cho việc bảo vệ quyền của người thiểu số trên thế giới
Chương 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM
HIỆN HÀNH VỀ QUYỀN NHÂN THÂN CỦA NHÓM NGƯỜI
DỄ BỊ TỔN THƯƠNG TRONG XÃ HỘI
2.1. Khái quát chung về quyền nhân thân của nhóm người
dễ bị tổn thương trong xã hội theo quy định của pháp luật dân sự
hiện hành
Tuy nhiên tiếp cận dưới góc độ pháp lý thì mặc dù quyền nhân
thân của nhóm người dễ bị tổn thương là một bộ phận cấu thành của
luật nhân quyền quốc tế, nhưng trong pháp luật dân sự Việt Nam hiện
hành, có thể xác định rằng quyền nhân thân của nhóm người dễ bị tổn
thương là quyền nhân thân của một bộ phận cá nhân có những yếu tố
11
đặc biệt trong xã hội, được các quy pháp luật luật dân sự về quyền nhân
thân điều chỉnh.
2.2. Nội dung của các quyền nhân thân của nhóm người dễ
bị tổn thương trong xã hội theo quy định của pháp luật dân sự hiện
hành
2.2.1. Các quyền nhân thân của nhóm người dễ bị tổn
thương trong xã hội liên quan đến sự cá biệt hóa cá nhân
Thứ nhất, quyền có họ, tên của nhóm người dễ bị tổn thương
Quyền có họ, tên là quyền nhân thân quan trọng đối với mỗi
cá nhân nói chung cũng như người thuộc nhóm dễ bị tổn thương, có từ
thời điểm cá nhân được sinh ra
Thứ hai, quyền thay đổi họ; quyền thay đổi tên của nhóm người
dễ bị tổn thương
Với việc ghi nhận quyền có họ, tên đối với nhóm người dễ bị
tổn thương là cơ sở tiền đề cho việc bảo đảm quyền thay đổi họ, thay
đổi tên của họ.
Thứ ba, quyền xác định, xác định lại dân tộc của nhóm người
dễ bị tổn thương
Xác định dân tộc là việc xác định lần đầu tiên cho một cá nhân
(áp dụng phổ biến với trẻ sơ sinh – thuộc nhóm dễ bị tổn thương khi
làm thủ tục đăng ký khai sinh); còn xác định lại dân tộc là việc định
dân tộc hoặc những cá nhân đã được thừa nhận một dân tộc trước đó,
có nhiều ý nghĩa với nhóm người lao động di trú
Thứ tư, quyền của nhóm người dễ bị tổn thương đối với hình
ảnh
Quyền của cá nhân đối với hình ảnh là quyền nhân thân gắn
liền với mỗi cá nhân được pháp luật ghi nhận và bảo vệ, theo đó cá
12
nhân được phép sử dụng hình ảnh và cho phép người khác sử dụng
hình ảnh của mình
Thứ năm, quyền xác định lại giới tính, chuyển đổi giới tính của
nhóm người dễ bị tổn thương
Nguyên tắc xác định lại giới tính là: Bảo đảm mỗi người
khuyết tật được sống đúng với giới tính của mình, việc xác định lại giới
tính phải được tiến hành trên nguyên tắc tự nguyện, khách quan, trung
thực, khoa học và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc đã xác
định lại giới tính, giữ bí mật về các thông tin liên quan đến người được
xác định lại giới tính.
Thứ sáu, quyền đối với quốc tịch của nhóm người dễ bị tổn
thương
Quốc tịch là yếu tố nhân thân gắn liền với mỗi cá nhân, là yếu
tố thể hiện sự liên kết của một cá nhân với quốc gia mà cá nhân mang
quốc tịch, đối với nhóm người dễ bị tổn thương cũng như vậy
2.2.2. Các quyền nhân thân của nhóm người dễ bị tổn
thương trong xã hội liên quan đến giá trị của con người trong xã hội
- Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín (Điều 34
BLDS năm 2015)
Nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội cần được bảo vệ
danh dự, nhân phẩm và uy tín để có thể tiếp tục cống hiến, tham gia
vào việc hoà nhập cộng đồng, đóng góp cho xã hội và trở thành người
có ích.
- Quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình
(Điều 38 BLDS năm 2015
Quyền được bảo vệ đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật
gia đình là thực sự cần thiết bởi lẽ, những thông tin về đời sống riêng
13
tư, những bí mật cá nhân, bí mật gia đình của người dễ bị tổn thương
là những điều nhạy cảm, có thể là nguyên nhân dẫn đến tình trạng “dễ
bị tổn thương” của họ trong cộng đồng. Quyền được tôn trọng, bảo vệ
các bí mật đó là cần thiết và hợp lý.
2.2.3. Các quyền nhân thân của nhóm người dễ bị tổn
thương trong xã hội liên quan đến thân thể con người
- Quyền sống, quyền được đảm bảo an toàn về tính mạng, sức
khoẻ, thân thể (Điều 33)
Tính mạng, sức khỏe, thân thể của cá nhân là những yếu tố
quan trọng hàng đầu và vô giá đối với mỗi người. Do đó, quyền sống,
quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể của các
nhân là quyền nhân thân cơ bản được ưu tiên quan tâm và bảo vệ từ
phía nhà nước và các cơ quan có thẩm quyền.
- Quyền hiến, nhận mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác
(Điều 35)
Xuất phát từ nhu cầu của cá nhân cũng như mục đích chia sẻ
với cộng đồng, những người gặp khó khăn trong quá trình điều trị bệnh
hoặc vì lý do y tế khác mà pháp luật ghi nhận quyền hiến, nhận mô, bộ
phận cơ thể người và hiến, lấy xác. Theo đó, cá nhân được quyền tự
quyết đối với cơ thể mình và đối thi thể của họ sau khi chết.
2.2.4. Các quyền nhân thân của nhóm người dễ bị tổn
thương trong xã hội liên quan đến quan hệ hôn nhân và gia đình
- Quyền nhân thân trong hôn nhân và gia đình (Điều 39 BLDS
năm 2015)
14
Bên cạnh quyền sống, được bảo đảm những giá trị tinh thần,
sức khoẻ, thân thể của mình, nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội
cũng có quyền được “mưu cầu hạnh phúc”, ở đó, trong quan hệ hôn
nhân và gia đình, những quyền nhân thân của họ cũng cần được bảo
đảm.
2.2.5. Các quyền nhân thân của nhóm người dễ bị tổn
thương trong xã hội liên quan đến hoạt động lao động, sáng tạo của
cá nhân
Lao động là hoạt động thiết yếu, là phương thức tồn tại của con
người. Bởi vậy, quyền được lao động có bản chất là một quyền tự
nhiên, nó gắn bó và quan hệ mật thiết với “quyền sống” của mỗi cá
nhân. Đối với nhóm người dễ bị tổn thương như trẻ em, phụ nữ, người
khuyết tật, trong quá trình tham gia làm việc của các chủ thể này có
các quy định pháp luật riêng để bảo vệ, hỗ trợ, khuyến khích họ tham
gia làm việc.
Chương 3
THỰC TIỄN VẬN DỤNG VÀ BẢO VỆ QUYỀN NHÂN THÂN
CỦA NHÓM NGƯỜI DỄ BỊ TỔN THƯƠNG TRONG XÃ HỘI
3.1. Những mặt tích cực đã đạt được trong việc vận dụng
và bảo vệ các quyền nhân thân của nhóm người dễ bị tổn thương
trong xã hội
3.1.1 Trong việc bảo vệ quyền nhân thân đối với trẻ em
Cụ thể hơn, việc đảm bảo quyền nhân thân về sức khỏe, thân
thể theo quy định tại điều 33 BLDS 2015 luôn được chú trọng, các
chương trình khám chữa bệnh miễn phí, các biện pháp giảm tỷ lệ tử
15
vong trẻ sơ sinh và suy dinh dưỡng đã được triển khai khá hiệu quả
(khoảng 8,4 triệu trẻ, chiếm trên 90% trẻ em dưới 6 tuổi, được phát thẻ
khám chữa bệnh miễn phí)
3.1.2 Trong việc bảo vệ quyền nhân thân đối với phụ nữ
Cùng với đó, Việt Nam cũng đạt được những thành tựu đáng
khích lệ về đảm bảo các quyền của phụ nữ. Tỷ lệ nữ là đại biểu Quốc
hội đạt tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội Việt Nam hiện nay đã tăng lên mức
26,72%, cao hơn mức trung bình toàn cầu là 22,3%1, đứng thứ 4 ở khu
vực Châu Á-Thái Bình Dương. 83% nữ giới trong độ tuổi lao động có
việc làm.
3.1.3 Trong việc bảo vệ quyền nhân thân đối với nhóm người
dân tộc thiểu số
Việt Nam đang triển khai hai chương trình mục tiêu quốc gia
là Chương trình Hỗ trợ Đất Sản xuất, Đất ở, Nhà ở và Nước sinh hoạt
cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn (Chương
trình 134) và Chương trình Phát triển Kinh tế-Xã hội các xã đặc biệt
khó khăn vùng đồng bào dân tộc miền núi, biên giới và vùng sâu, vùng
xa (Chương trình 135)
3.1.4 Trong việc bảo vệ quyền nhân thân đối với nhóm người
khuyết tật
Nhà nước Việt Nam luôn tạo mọi điều kiện để các quyền của
người khuyết tật Việt Nam ngày càng được đáp ứng tốt hơn. Nhiều
1 Xem thêm tại:
trung-binh-toan-cau-20180118111331779.htm
16
người khuyết tật nặng, thương binh, bệnh binh, người bị di chứng chất
độc da cam, trong đó có trẻ em, được Nhà nước trợ cấp và nuôi dưỡng.
3.1.5. Trong việc bảo vệ quyền nhân thân đối với nhóm
người lao động di trú
Theo thống kê đến tháng 8/2011, số người nước ngoài làm việc
ở Việt Nam là hơn 74.000 người. Lao động nước ngoài đến Việt Nam
làm việc có quốc tịch từ hơn 60 quốc gia, trong đó người Châu Á chiếm
hơn 58% gồm Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia; khoảng
28,5% mang quốc tịch Châu Âu và còn lại là các nước khác.
3.1.6 Trong việc bảo vệ quyền nhân thân đối với nhóm người
sống chung với HIV/AIDS
Theo số liệu của Bộ Y tế, Việt Nam đã xét nghiệm HIV được
cho tổng cộng hơn 760 000 phụ nữ mang thai, tăng từ 32% năm 2009
lên 36% năm 2010.. Số người được điều trị kháng vi-rút tính đến tháng
12 năm 2010, ở Việt Nam là 42.492. Việt Nam hiện đã cung cấp điều
trị được cho khoảng 52% những người sống với HIV đủ điều kiện tham
gia điều trị. Khi người sống với HIV có sức khỏe tốt hơn, họ có thể tự
lo liệu tốt hơn về mặt tài chính2.
3.2. Những mặt hạn chế trong việc vận dụng và bảo vệ các
quyền nhân thân của nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội
3.2.1 Tình trạng trẻ em bị xâm hại tình dục, xâm phạm hình
ảnh, quyền riêng tư, bí mật cá nhân và bị ngược đãi trở nên phổ biến
và nghiêm trọng.
2
17
Theo thống kê của Cục Cảnh sát hình sự, Tổng cục Cảnh sát,
Bộ Công an, từ năm 2014 đến năm 2016, toàn quốc đã phát hiện 4.147
vụ xâm hại tình dục trẻ em, với 4.320 đối tượng gây án, xâm hại 4.140
em; Riêng 6 tháng đầu năm 2017 đã phát hiện 696 vụ xâm hại tình dục
trẻ em, với 716 đối tượng gây án.
3.2.2 Tình trạng phụ nữ bị xâm phạm về sức khỏe, thân thể,
bị bạo lực gia đình, phân biệt đối xử vẫn còn tồn tại và có thiên
hướng phức tạp hơn.
Trong tổng số 157.859 vụ BLGĐ được phát hiện (từ năm
2011- 2015) cho thấy: Nạn nhân là phụ nữ (từ 16- 59 tuổi) chiếm tới
117.206 trường hợp (74,24%); 17.586 trường hợp là trẻ em (11,14%);
14.017 trường hợp là người cao tuổi (8,91%). Thống kê cũng cho thấy,
có khoảng 58% phụ nữ đã kết hôn cho biết rằng cuộc đời họ đã từng
phải trải qua ít nhất 1 trong 3 loại bạo lực gồm thể xác, tình dục và tinh
thần.
3.2.3 Việc tiếp cận một số quyền nhân thân cơ bản của nhóm
người thiểu số còn gặp nhiều khó khăn
Đến 2012, tỷ lệ biết chữ trong độ tuổi từ 10 tuổi trở lên trong
đồng bào dân tộc thiểu số là 83,8% - một con số rất đáng kể so với thời
kỳ trước năm 1975. Một số dân tộc chỉ có tỷ lệ không biết đọc biết viết
thấp như Tày: 5,1%, Mường: 5,5%. Tỷ lệ hoàn thành cấp tiểu học khu
vực miền núi phía Bắc đạt 89,4%; Tây Nguyên 83,65 và Tây Nam Bộ
86,4%3.
3
5270172&MaMT=22
18
3.2.4 Tình trạng kì thị, phân biệt đối xử đối với người khuyết
tật vẫn còn tồn tại, quá trình hoà nhập cộng đồng của người khuyết
tật còn gặp nhiều khó khăn.
Chính sự kỳ thị và phân biệt đối xử của gia đình và cộng đồng
là nguyên nhân quan trọng nhất gây ra khó khăn cho người khuyết tật
trong hôn nhân. Trong quan niệm của nhiều người, việc kết hôn của
với người khuyết tật là không nên và sẽ đưa đến những điều khó khăn
trong cuộc sống cho chính bản thân người khuyết tật.
3.2.5 Trong việc bảo vệ quyền nhân thân của nhóm lao động
di trú tại Việt Nam ở một số lĩnh vực chưa có sự hướng dẫn cụ thể
dẫn đến hệ quả khó khăn khi tiếp cận quyền.
Theo thống kê đến tháng 8/2011, số người nước ngoài làm việc
ở Việt Nam là hơn 74.000 người. Lao động nước ngoài đến Việt Nam
làm việc có quốc tịch từ hơn 60 quốc gia, trong đó người Châu Á chiếm
hơn 58% gồm Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia; khoảng
28,5% mang quốc tịch Châu Âu và còn lại là các nước khác.
3.2.6 Người bị nhiễm HIV/AIDS vẫn bị xâm phạm quyền đời
sống riêng tư, bí mật cá nhân, đồng thời phải chịu sự kì thị và phân
biệt đối xử, ảnh hưởng nghiêm trọng tới quá trình sinh hoạt, lao
động và hoà nhập cộng đồng.
Trong chín tháng đầu năm, cả nước phát hiện mới 6.883 người
nhiễm HIV, chuyển sang giai đoạn AIDS 3.484 người, số người nhiễm
HIV tử vong 1.260 người. Ước tính cả năm 2017 sẽ có khoảng 9.800
người nhiễm HIV mới được phát hiện và có khoảng 1.900 người nhiễm
19
HIV tử vong. Lây truyền qua đường tình dục tiếp tục chiếm tỷ trọng
lớn trong những năm trở lại đây.
Chương 4
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN NHÂN THÂN CỦA NHÓM NGƯỜI
DỄ BỊ TỔN THƯƠNG TRONG XÃ HỘI
4.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về quyền nhân
thân của nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội
4.1.1. Thể chế hóa kịp thời, đầy đủ và đúng đắn quan điểm
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
Thể chế hoá kịp thời, đầy đủ, đúng đắn đường lối của Đảng,
cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp về xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, và vì
nhân dân; bảo đảm quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công
dân; xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát
triển văn hoá- xã hội, giữ vững quốc phòng, an ninh
4.1.2. Bảo đảm tính thống nhất và đồng bộ trong hệ thống
pháp luật đối với việc bảo đảm quyền con người, quyền nhân thân
Tính thống nhất và đồng bộ được đặt ra đối với cả hệ thống
pháp luật cũng như đối với từng văn bản quy phạm pháp luật. Hệ thống
pháp luật được cấu tạo nên bởi các thành tố khác nhau, để bảo đảm
được tính thống nhất của hệ thống pháp luật thì giữa các thành tố cấu
tạo nên nó không được có sự mâu thuẫn, chống chéo với nhau.
20
4.1.3. Việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật về quyền nhân
thân của nhóm người dễ bị tổn thương cần phù hợp với các văn kiện
quốc tế mà Việt Nam tham gia, ký kết
Với tư cách là thành viên của các tổ chức kinh tế quốc tế, các
điều ước quốc tế, thoả thuận quốc tế, chúng ta có nghĩa vụ phải tuân
thủ đầy đủ các cam kết quốc tế của mình, trong đó có nghĩa vụ sửa đổi
pháp luật cho tương thích, nhất là đối với kết của chúng ta khi gia nhập
các tổ chức kinh tế thế giới, điều ước quốc tế đa phương là việc làm
cần thiết nhằm tăng cường vị thế và nâng cao uy tín của Việt Nam trên
trường quốc tế;
4.1.4. Kế thừa tính nhân văn, đặc biệt là quyền của những
người yếu thế trên cơ sở bảo vệ và thực hiện nghiêm minh bằng pháp
luật.
Đặc biệt trong điều kiện tác động của cơ chế thị trường cạnh
tranh như hiện nay, công tác bảo đảm quyền con người càng phải kế
thừa, phát huy truyền thống nhân văn của nó. Trong đó, việc tôn trọng,
bảo vệ, thực hiện quyền lợi cho những người yếu thế (phụ nữ, trẻ em,
người già, người khuyết tật, người nghèo,...) có ý nghĩa cốt lõi trong
công tác bảo đảm quyền con người.
4.2. Giải pháp hoàn thiện và nâng cao pháp luật về quyền
nhân thân của nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội
4.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền nhân thân
của nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội
Thứ nhất, hoàn thiện các quy định của Bộ luật dân sự liên quan
đến quyền đối với hình ảnh của nhóm người dễ bị tổn thương
21
Trên cơ sở nghiên cứu các nội dung được quy định trong pháp
luật dân sự Việt Nam hiện hành về quyền nhân thân nói chung và quyền
của nhóm người dễ bị tổn thương nói riêng, tác giả đề xuất việc sửa
đổi, bổ sung và hoàn thiện khoản 1 Điều 32 Bộ luật Dân sự năm 2015
liên quan đến quyền của cá nhân đối với hình ảnh.
Thứ hai, xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp luật chuyên
ngành nhằm đảm bảo quyền nhân thân của nhóm người dễ bị tổn
thương trong xã hội
Đối với nhóm trẻ em: Cần hoàn thiện hệ thống pháp luật về
quyền, bảo đảm sự toàn diện, đồng bộ, thống nhất giữa Bộ luật Dân sự
2015, Luật Trẻ em 2016 với các luật chuyên ngành khác, loại bỏ sự
mâu thuẫn, chồng chéo cũng như các quy định pháp luật cần cụ thể,
đảm bảo tính khả thi của cả hệ thống pháp luật.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_van_quyen_nhan_than_cua_nhom_nguoi_de_bi_ton_th.pdf