Đề án Thực trạng và giải pháp hoàn thiện công tác huy động vốn ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam

MỤC LỤC

Trang

Lời mở đầu 1

Chương I: Vốn trong doanh nghiệp vừa và nhỏ 2

I. Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế thị trường 2

1. Khái niệm: 2

2. Các tiêu thức xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ( DNVVN) 2

3. Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế: 3

II. Vai trò và các nguồn vốn trong DNVVN: 5

1. Vai trò của vốn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ: 5

2. Các nguồn vốn cho DNVVN 7

2.1 Nguồn vốn ngân sách nhà nước: 7

2.2 Gọi vốn qua phát hành cổ phiếu: 7

2.3. Vay vốn bằng phát hành trái phiếu trên thị trường vốn 7

2.4. Vay vốn của các ngân hàng thương mại 8

2.5. Tín dụng thuê mua 8

2.6 Nguồn vốn viện trợ phát triển ODA 8

2.7. Vốn tự bổ sung của DNVVN 9

Chương II:Thực trạng công tác huy động vốn ở DNVVN Việt Nam 10

I. Khái quát thực trạng DNVVN Việt Nam 10

1. Những đóng góp của DNVVN Việt Nam trong nền kinh tế 10

2. Những cơ hội và thách thức đối với DNVVN của Việt Nam trong quá trình phát triển 11

2.1. Những cơ hội: 11

2.2. Một số tồn tại, thách thức 12

II. Thực trạng công tác huy động vốn DNVVN 14

1. Những thuận lợi và khó khăn do môi trường đem lại cho công tác huy động vốn DNVVN Việt Nam. 14

1.1. Thuận lợi : 14

1.2. Khó khăn 15

2. Thực trạng huy động vốn tại DNVVN Việt Nam 16

2.1. Vốn chủ sở hữu: 18

2.2. Nguồn vốn chính thức 18

2.3. Nguồn vốn phi chính thức (PCT) 24

3. Nhận xét chung. 25

Chương III: Giải pháp huy động vốn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ 27

I. Kinh nghiệm tham khảo chính sách huy động vốn đối với DNVVN ở một số nước. 27

II. Một số giải pháp huy động vốn có hiệu quả cho doanh nghiệp vừa và nhỏ 29

1. Giải pháp 1: Tăng cường nguồn vốn chủ sở hữu. 29

2. Giải pháp 2: Vay có kỳ hạn 30

3. Giải pháp 3: Cho thuê tài chính. 33

4. Giải pháp 4: Huy động vốn từ nguồn vốn phi chính thức 34

III. Một số kiến nghị với nhà nước. 38

Kết luận 40

Tài liệu tham khảo 41

 

doc43 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1323 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thực trạng và giải pháp hoàn thiện công tác huy động vốn ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
động từ các nguồn khác như bạn bè, người thân… Việc các DNVVN không tiếp cận và sử dụng được các nguồn vốn đặc biệt là nguồn vốn tín dụng là hạn chế lớn nhất đối với sự phát triển của loại hình doanh nghiệp này. Các chính sách vĩ mô, vi mô nhằm hỗ trợ DNVVN còn hạn chế, nặng về hình thức, thiếu hướng dẫn cụ thể như chính sách đối với doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ, chính sách vay vốn tín dụng với lãi suất ưu đãi nhằm giải quyết việc làm cho người lao động, các hệ thống thông tin, các dịch vụ tư vấn về mặt hàng, thị trường, công nghệ, thiết bị, môi trường luật pháp, thông lệ quốc tế về kinh doanh… không đáp ứng được các nhu cầu của các DNVVN. Những khó khăn phiền toáI đối với DNVVN xung quanh các thủ tục kê khai hải quan, thủ tục tín dụng vay vốn, tính thuế, hoàn trả thuế, nhà đất … vẫn còn là nỗi lo lắng, băn khoăn của các doanh nghiệp. II. Thực trạng công tác huy động vốn DNVVN 1. Những thuận lợi và khó khăn do môi trường đem lại cho công tác huy động vốn DNVVN Việt Nam. 1.1. Thuận lợi : Doanh nghiệp vừa và nhỏ thường khởi sự bằng nguồn vốn hạn hẹp của cá nhân, sự tài trợ bên ngoài là hết sức hạn chế. Do tính chất nhỏ bé dễ phân tán đi sâu vào các ngõ ngách bản làng và yêu cầu số lượng vốn ban đầu không nhiều, cho nên các DNVVN có vai trò và tác dụng rất lớn trong việc thu hút các nguồn vốn nhỏ bé nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư đầu tư vào sản suất kinh doanh. DNVVN chỉ cần một số vốn hạn chế, một mặt bằng nhỏ hẹp đã có thể khởi sự doanh nghiệp. Vòng quay sản phẩm nhanh do đó có thể sử dụng vốn tự có hoặc đi vay bạn bè, người thân dễ dàng mà khi nhu cầu thị trường thay đổi tình thế để thích ứng. Vốn đầu tư ban đầu ít, hiệu quả cao thu hồi nhanh, do đó DNVVN đã tạo nên sự hấp dẫn trong đầu tư của nhiều cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế. Hơn nữa, còn được chính phủ từng bước tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển kinh tế của DNVVN : Thông qua tổ nghiên cứu cơ chế chính sách phát triển DNVVN Việt Nam được thành lập tháng 5/1999, chính phủ nắm bắt kịp thời thực trạng DNVVN Việt Nan và các hoạt động hỗ trợ của các đoàn thể và tổ chức quốc tế để từ đó quy các nguồn vốn này vào một đầu mối để dễ quản lý, doanh nghiệp dễ tiếp cận khi cần vay vốn. Trên thực tế, hiện nay chỉ có khoảng 2 quỹ hỗ trợ phát triển thực sự cho hiệu quả đối với các DNVVN . Bên cạnh các chính sách ưu đãi về tài chính quy định tại các luật khuyến khích đầu tư trong nước và luật thuế thu nhập doanh nghiệp, các DNVVN còn nhận được sư hỗ trợ khác từ Nhà Nước với mục tiêu trợ giúp DNVVN về vốn. Chính phủ đã có quyết định số 193/2001/QD-TTG ngày 20/2/2001 ban hành quy chế thành lập, tổ chức và hoạt động của quỹ bảo lãnh tín dụng DNVVN 1.2. Khó khăn Đối với các DNVVN ở bất kỳ nước nào, không chỉ riêng Việt Nam, vốn vẫn là mối quan tâm hàng đầu của họ. Do thành lập DNVVN tương đối dễ dàng nên số DNVVN ngày càng nhiều, lại tập trung vào những ngành những sản phẩm không đòi hỏi vốn qúa lớn nên cuộc cạnh tranh ngày càng gay gắt, mức lợi nhuận ngày càng mỏng đi, khó tích luỹ vốn để mở rộng kinh doanh. Trong khi đó DNVVN lại không có đủ tài sản, nhất là bất động sản, để làm vật đảm bảo vay vốn ở các ngân hàng. Đặc biệt là nhu cầu vốn trung và dài hạn để đầu tư đổi mới máy móc, thiết bị, xây dựng thêm nhà xưởng lại càng nan giải hơn. Khó khăn về vốn để hoạt động sản xuất hoặc dịch vụ có lẽ là điều bất lợi nghiêm trọng nhất của DNVVN vì nó hạn chế năng lực của họ để cho được những dịch vụ cần thiết cho doanh nghiệp hoạt động. DNVVN thường buộc phải trả giá cao hơn về nguyên vật liệu hoặc giá thấp hơn về sản phẩm, cuối cùng vì họ bị phụ thuộc tài chính vào các nguồn cung cấp nguyên liệu hoặc người môi giới. Họ có thể phải chịu thiếu một hạng mục thiết bị mà lẽ ra nhờ nó họ có thể giảm chi phí cho sản phẩm của họ hoặc cải tiến được chất lượng sản phẩm, chỉ bởi vì không đủ mua thiết bị đó. Mặt khác, lãi suất cho vay hiện nay ở các ngân hàng vẫn còn đang ở mức quá cao so với tỷ suất lợi nhuận của mọi doanh nghiệp nói chung và DNVVN nói riêng. Thời gian vay quá ngắn (thường chỉ từ 3-12 tháng) so với chu kỳ sản suất kinh doanh (nếu tính đầu tư mới mở rộng sản suất kinh doanh thì phải 3-5 năm). Hơn nữa các DNVVN không đủ tài sản thế chấp khi vay những khoản tiền lớn cho nhu cầu phát triển sản xuất. Vì thế, điều nghịch lý đó đã diễn ra: Các doanh ngiệp cần vốn nhưng không dám vay ngân hàng, ngược lại các ngân hàng thừa vốn dù phần lớn là vốn ngắn hạn nhưng khó tìm được khách hàng vay chân chính. Và những khách hàng vay chủ yếu của các ngân hàng có lẽ vẫn là các doanh nghiệp lớn của các “đại gia” hơn là các DNVVN . Mối quan hệ với các DNVVN với ngân hàng còn lỏng lẻo. Sự hỗ trợ từ phía các ngân hàng đối với các DNVVN còn yếu. Mặc khác, các DNVVN khi quan hệ với các ngân hàng để vay vốn tín dụng thường thiếu sư thuyết phục cần thiết về luận chứng kinh tế kỹ thuật cần thiết đối với ngân hàng. 2. Thực trạng huy động vốn tại DNVVN Việt Nam Khi chuyển sang cơ chế thị trường, tình hình khá phổ biến ở hầu hết các doanh nghiệp là tình trạng thiếu vốn. Đối với các DNVVN tình trạng thiếu vốn là một tất yếu không thể tránh khỏi. Theo số liệu điều tra ở Hà Nội năm1994 có hơn 60% doanh nghiệp thiếu vốn chỉ đáp ứng được một phầm nhỏ nhu cầu về vốn của doanh nghiệp. Đó là do nhiều nguyên nhân, nhưng trước hết phải kể đến là sự tác động của tình trạng lạm phát, sự biến động của giá cả trong nước và thế giới trong một thời gian dài làm cho sau mỗi chu kỳ sản xuất không đủ tái tạo, không bù đắp được số vốn ban đầu hoặc sự dư ra không đáng kể. Sự thiếu vốn vòn do nhiều doanh nghiệp có hiệu quả kinh doanh thấp, thậm chí có nơi có lúc không hiệu quả, làm cho lượng vốn hao hụt, mất dần (thâm hụt vốn); tình trạng chiếm dụng vốn lẫn nhau, nợ nần lòng vòng, dây dưa giữa các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế đang diễn ra rất nghiêm trọng (trong giai đoạn II của quá trình thanh toán công nợ , số nợ phải xử lý lên tới 18000 tỷ đồng). Nhưng đáng chú ý nhất là sự thiếu vốn tương đối đang diễn ra trên bình diện rộng và khá gay gắt. Đó là những trường hợp doanh nghiệp có yêu cầu mở rộng kinh doanh hoặc yêu cầu đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, để có thể đứng vững trong cạnh tranh phát triển, nhưng không có nguồn cung ứng vốn(vốn trong dân không huy động được, vốn ngân hàng cho vay rất hạn chế). Cụ thể nguồn vốn cho DNVVN được thể hiện ở bảng dưới đây. Bảng 1: Cơ cấu của các DNVVN ở một số tỉnh Nguồn vốn Hà Nội Quảng Ninh Hải phòng Tổng số trung bình Vốn chủ sở hữu 45,6 49,3 46,7 47,2 Vay người thân, bạn bè 24,7 24,5 22,3 24,3 Vay nóng 2,2 2,5 2,15 2,4 Vay ngân hàng 24 20,5 21,5 21,1 Đóng góp công nhân 1,9 2,3 3,5 2,5 Các nguồn khác 1,6 1,7 3,8 2,2 Nguồn : Tổ chức lao động thế giới(1998) Từ bảng trên ta thấy, lượng vốn huy động được của các DNVVN chủ yếu từ các nguồn cá nhân như của chủ doanh nghiệp, bạn bè, người thân và các khoản vay không chính thức khác, chiếm7 5,2%; lượng vốn vay từ ngân hàng và đóng góp của công nhân chỉ chiếm một lượng nhỏ 23,6%, còn lại là từ một số nguồn khác 2,2%. điều này chứng tỏ các DNVVN gặp khó khăn trong việc huy động vốn để sản xuất kinh doanh nhất là từ phía ngân hàng. ở Hà Nội, hiện tại chỉ có khoảng 25% doanh nghiệp ngoài quốc doanh được vay vốn ngân hàng; 11,9% doanh nghiệp vay vốn từ các hợp tác xã tín dụng… những cản trở ở tầm vĩ mô dẫn đến việc cung ứng vốn cho doanh nghiệp hiện nay đang trở thành vấn đề bức xúc. Mặt khác, thị trường vốn trung và dài hạn chưa phát triển, không thu hút mạnh mẽ các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội nhằm đáp ứng cho nhu cầu vốn của các doanh nghiệp. Để cụ thể hơn ta hãy xem xét thực trạng tình hình huy động vốn của DNVVN từ các nguồn vốn sau: 2.1. Vốn chủ sở hữu: Là loại vốn thường được tạo ra từ vốn riêng của các nghiệp chủ, vốn đóng góp của các cổ đông, bạn bè, họ hàng…nguồn vốn này chiếm khoảng 5-10% vốn luân chuyển của các DNVVN . Thực tế ta thấy hiện nay các DNVVN thường sử dụng phần lớn nguồn vốn này vào việc kinh doanh chiếm khoảng 47,2% trên tổng số vốn toàn bộ doanh nghiệp. Để huy động được nguồn vốn này, doanh nghiệp đã gặp phải rất nhiều khó khăn: - Do đặc điểm của các DNVVN là ở chỗ người chủ doanh nghiệp chỉ có phương tiện tài chính ở một mức độ nhất định nên họ khôngthể bỏ ra nhiều hơn số vốn mà họ đã đóng góp và doanh nghiệp, lượng vốn này thường không đổi trong suốt quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy mà nguồn vốn này chưa được tận dụng một cách triệt để, trong khi các doanh nghiệp đang ở tình trạng đói vốn thì lượng tiền “chết” vẫn nằm trong túi của người dân khá lớn. 2.2. Nguồn vốn chính thức Nguồn vốn này được đánh giá là có triển vọng trong tương lai. Nhưng hiện nay các DNVVN còn chưa tiếp cần được nhiều và triệt để với nguồn vốn này, tỉ trọng các DNVVN vay được từ nguồn vồn chính thức chỉ chiếm một tỷ lệ rất khiêm tốn so với các doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp lớn khác. 2.2.1. Doanh nghiệp với nguồn vốn vay ngân hàng. Xét trên tổng thể, các số liệu rút ra từ một tài liệu do ngân hàng trung ương ấn hành cho thấy phần tín dụng trung và dài hạn so với toàn bộ các loại tín dụng mà hệ thống ngân hàng đã cấp trong 9 tháng đầu năm 1997 chiếm 19%. Con số này chỉ là con số trung bình và hiển nhiên là không tính đến sự khác biệt rất lớn giữa các ngân hàng trong hoạt động tín dụng có kỳ hạn. Tuy nhiên con số này cho phép nhận thấy rằng nhìn chung phần tín dụng có kỳ hạn vẫn còn thấp và các ngân hàng còn trả được tỉ lệ 20% tính dụng có kỳ hạn trên tổng số tín dụng ngân hàng nhà nước yêu cầu. Nhu cầu vay vốn của các DNVVN khá cao trong đó ngân hàng không đáp ứng được đầy đủ nhu cầu đó. Bảng 2: Mức độ vay vốn từ ngân hàng Mức độ vay vốn từ ngân hàng 1995 1996 1997 1998 Không vay được từ ngân hàng 55,9 35,5 28,4 22,5 < 10% tổng số DNVVN vay được vốn 5,3 6,3 8,2 9,4 10% - 30% cầu về vốn của DNVVN 20,1 35,1 38,6 41,2 30% - 50% cầu về của DNVVN 12,3 15,5 16,5 17,7 >50% cầu về vốn của DNVVN 6,4 7,6 8,3 9,2 Nguồn : UNIDO- MPI(1998) Ta thấy số DNVVN vay được vốn qua các năm tăng lên nhưng còn rất chậm do các hình thức vay ngân hàng phải trải qua các thủ tục nghiêm ngặt, phiền hà và thế chấp chặt chẽ, phải có luận chứng cụ thể của phương án kinh doanh… trên thực tế chỉ có khoảng 30-40% số chủ doanh nghiệp có yêu cầu được vay. Hơn nữa lãi suất vay vốn của ngân hàng chưa khuyến khích phát triển loại hình doanh nghiệp này. Trong khu vực kinh tế quốc doanh, DNVVN chịu chung cơ chế quản lý vốn của nhà nước : Thứ nhất, doanh nghiệp được giao vốn và bảo toàn vốn. Thứ hai, khả năng tạo vốn không được thông qua quỹ khấu hao cơ bản, qua lợi nhuận để lại trích quỹ phát triển. Thứ ba, vay ngân hàng : Khả năng vay ngân hàng của các DNVVN quốc doanh chỉ có thể thực hiện được nếu triển vọng doanh thu của doanh nghiệp cho phép trả nợ trong 2-3 năm. Vì vậy chỉ có một số rất ít có thể làm được trong mấy năm. Đối với ngân hàng quốc doanh : Các DNVVN chiếm khoảng 70% khách hàng của các ngân hàng quốc doanh, phần tín dụng có kỳ hạn mà các DNVVN này nhận được có thể được đánh giá bằng khoảng 15% toàn bộ các khoản tín dụng mà các ngân hàng này cung cấp. Một trong các lý do giải thích lượng tín dụng có kỳ hạn do các ngân hàng quốc doanh cấp không cao là ở chỗ các ngân hàng này không có đủ nguồn lực tài chính dài hạn. Nhưng gần đây một số ngân hàng được giao quản lý “ nguồn tài trợ” do đối tác nước ngoài cấp, do đó các ngân hàng sẽ có nguồn tài chính cần thiết để cấp tín dụng có kỳ hạn cho những khách hàng đáp ứng được một số điều kiện nhất định. Các DNVVN sẽ có cơ hội vay được nhiều vốn hơn Đối với ngân hàng cổ phần Các ngân hàng này chủ yếu hướng hoạt động vào tín dụng ngắn hạn. Tuy nhiên DNVVN khó vay được nguồn vốn này do ít có tài sản thế chấp, hơn nữa vấn đề khó khăn cơ bản mà các ngân hàng thường gặp phải đó là thiếu nguồn tài chính dài hạn, dẫn đến gây khó khăn cho việc đi vay. Đối với ngân hàng liên doanh Hoạt động trong việc cấp tín dụng có kỳ hạn phần này chiếm trung bình khoảng 20% so với toàn bộ lượng tính dụng mà ngân hàng liên doanh cấp. Tuy vậy, các ngân hàng này quan tâm nhiều đến khách hàng là những doanh nghiệp quốc doanh lớn và những doanh nghiệp liên doanh hay 100% vốn nước ngoài hơn là các DNVVN . Các khoản tín dụng có kỳ hạn mà các ngân hàng này cấp cho DNVVN là các doanh nghiệp quốc doanh nhỏ và các doanh nghiệp tư nhân có quy mô tương đối lớn. Đối với ngân hàng nước ngoài Các khoản vay được ghi bằng ngoại tệ, cũng như ngân hàng liên doanh. Các DNVVN ở Việt Nam hầu như không thể huy động được vốn từ nguồn này. 2.2.2. Doanh nghiệp vừa và nhỏ với nguồn thuê mua tài chính. Hiện nay có các công ty thuê mua tài chính được thành lập ở Việt Nam: Các công ty do ngân hàng Việt Nam lập ra: 3 công ty có nguồn gốc từ Vietcombank, VBARD;BIDV. Các công ty liên doanh có : “Vietnam International leasing company Ltd”(VILC) “VENA leasing Company” (VENA); “Vietnam leasing Coampany Ltd”(VLC). Trong đó đối tác Việt Nam là : đối tác với VILC là Incombank; đối tác VENA, Trường Thành trading &series company Ltd”. Các công ty 100% vốn nước ngoài. Các DNVVN có thể đề nghị các công ty này cho thuê động sản và bất động sản mà họ dự kiến ký hợp đồng với các công ty cho thuê tài chính và có sự hứa hẹn về bất động sản tuỳ theo tình hình. Đây là những hình thức cung cấp vốn rất có khả quan cho DNVVN ở Việt Nam, ngay cả trong lĩnh vực nông nghiệp. Doanh nghiệp sẽ có khả năng sử dụng vốn trong khi chưa có đủ vốn cam kết trả vốn lẫn lãi theo định kỳ đã thoả thuận với công ty cho thuê tài chính. Quy trình xét duyệt cho thuê tài chính được các công ty này quy định. Khó khăn trong khi thuê mua tài chính là: + Các DNVVN chưa quen với việc huy động nguồn vốn này. + Các DNVVN khi đi thuê phải chịu một lãi suất cao (bù phần khấu hao máy móc nguyên vật liệu). + Các DNVVN còn phải thuyết trình kế hoạch sản xuất cung cấp thông tin của doanh nghiệp cho các công ty thuê mua tài chính biết. Đây chính là một hạn chế lớn đối với DNVVN tìm kiếm đến nguồn vốn này. 2.2.3. Quỹ hỗ trợ phát triển Hoạt động thông qua ngân hàng phục vụ người nghèo, quỹ tíndụng nhân dân, quỹ phát triển nông thôn, liên hiệp hợp tác xã, quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia. Đến tháng 9 năm 1998, trong cả nước có gần 5 tỷ USD nhàn rỗi, hàng nghìn tỷ của quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia chưa sử dụng, hàng chục nghìn ha đất, nhà xưởng chưa sử dụng đúng. Nhìn cung nguồn vốn chính thức này đáp ứng được 25,6% nghiên cứu vốn của các DNVVN . Năm 1998 ngành ngân hàng dành tới 35% (4500 tỷ đồng), tổng dư nợ cho các DNVVN song tỷ lệ này còn ở mức thấp. Sau khi Nghị định 43/1999/NĐ-CP ngày 29/6/1999 của chính phủ ra đời, quỹ hỗ trợ phát triển đã đạt được một số kết qủa khả quan như : năm 2000 đã thẩm định gần 1000 dự án, ký hơn 1300 hợp đồng tín dụng có giá trị hơn 6800 tỷ đồng và giải ngân hơn 4700 tỷ đông, thực hiện cho vay lại 765 triệu USD bằng vốn ODA, bước đầu đã hỗ trợ lãi suất sau đầu tư cho 49 dự án với số tiền là 11,5 tỷ đồng. Tuy vậy, việc vay vốn từ nguồn này vẫn gặp phải những khó khăn còn tồn tại sau : Đối tượng còn ở phạm vi hẹp nhất là với các doanh nghiệp thuộc tỉnh, thành phố không thuộc vùng khó khăn hoặc đặc biệt khó khăn ; về thế chấp (bảo đảm tiền vay) cũng là những yếu tố mà các chủ đầu tư không thể khắc phục được, đó là chưa kể đến mức vay tối đa từ 50-70% so với nhu cầu của dự án, chủ dự án phải bỏ ra số còn thiếu quá nhiều nên lúng túng không biết xoay vào đâu. Một khó khăn nữa đối với các DNVVN là thông tin, các chủ đầu tư không được tiếp xúc với các văn bản về cơ chế tín dụng đầu tư phát triển, nói cách khác là không cơ quan nào phổ biến các nghị quyết, nghị định và các văn bản của nhà nước về tín dụng đầu tư và phát triển ; khó khăn này còn đặc biệt hơn đối với các doanh nghiệp dân doanh vì không có cơ quan cấp trên. 2.2.4. Nguồn vốn phi chính phủ và chính phủ Hiện nay có nhiều tổ chức quốc tế như ILO, UNIDO, ZDH tổ chức phát triển Hà Lan, việc Friedrich erbert (Đức, ESCAP…) rất quan tâm tới sự phát triển của các DNVVN ở Việt Nam . Cụ thể : - Dự án VIE/98/MO2/SID : Giữa chính phủ Việt Nam (qua VCCI – phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam) với chính phủ Thuỵ Điển – ILO. Có trị giá 1,7 tr USD là dành cho DNVVN . - Dự án “ tài chính nông thôn” : Dự án này với thời hạn dự kiến là 4 năm được tài trợ nhờ một khoản vay 120 triệu USD do “ Hiệp hội phát triển quốc tế “(IDA) cấp cho Nhà nước Việt Nam. Mục đích của dự án là hỗ trợ những cố gắng của chính phủ Việt Nam trong việc cải thiện đời sống tại các vùng nông thôn. Để làm được điều đó các mục tiêu được đề ra như sau : + Khuyến khích đầu tư ở khu vực tư nhân. + Tăng cường khả năng tài trợ cho đầu tư thuộc khu vực tư nhân. + Nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính của người nghèo tại các vùng nông thôn. Qua góc độ mà chúng ta quan tâm, dự án này thể hiện dưới hình thức một “ nguồn tài trợ” trị giá 100 triệu USD. Gọi là quỹ phát triển nông thôn, quỹ này dùng để tái tài trợ cho các khoản vay ngắn, trung và dài hạn do các ngân hàng trong nước cấp cho các hộ kinh doanh, các DNVVN tại vùng nông thôn. - Quỹ phát triển DNVVN (SMDF): Dự án này có thời gian 3 năm do cộng đồng Châu âu tài trợ, mục tiêu của dự án này là giúp đỡ Việt Nam trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường. Để thực hiện được mục tiêu này, nhiều hoạt động được đề ra nhằm thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp quốc doanh và tư nhân vừa và nhỏ trong 24 tỉnh thành, nhằm tăng cường phát triển kinh tế, xã hội đặc biệt là tạo công ăn việc làm. Dự án có một quỹ tài chính khoảng 25 triệu USD để tái tài trợ, một phần dành cho các khoản vay có kỳ hạn mà nhiều ngân hàng trong nước được tham gia cấp cho các DNVVN đáp ứng đủ yêu cầu. - Nguồn tài trợ Mê Kông (MFL) : Đây là nguồn tài trợ trị giá 5 triệu USD do công ty tài chính quốc tế (SFI) trực tiếp vận hành và quản lý, SFI là một trong những công ty của ngân hàng thế giơí quản lý và hỗ trợ thành lập quỹ phát triển DNVVN . Dự án MPDF với thời gian vận hành 5 năm, đã mở rộng hoạt động của mình sang Việt Nam, Lào, Campuchia. Dự án có mục đích thúc đẩy thành lập và phát triển DNVVN địa phương. Một mặt bằng cách cung cấp hàng loạt các dịch vụ tư vấn phong phú giúp đỡ các tổ chức địa phương. Một mặt bằng cách cung cấp hàng loạt các dịch vụ tư vấn phong phú giúp đỡ các tổ chức địa phương có hoạt động ảnh hưởng phát triển doanh nghiệp. - Qua thực tế nghiên cứu các nguồn tài trợ về vốn của các dự án trên ta thấy các DNVVN còn gặp một số những khó khăn sau: + Nguồn vốn của các dự án còn hạn hẹp chưa đủ đáp ứng nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp. + Mức độ cung cấp chỉ giới hạn trong một số doanh nghiệp nhất định. + Thời gian tài trợ ngắn hạn 3-5 năm, không đủ để các doanh nghiệp phát triển doanh nghiệp, quay vòng vốn trong chu kỳ hoạt động kinh doanh. + Thủ tục cho vay còn nhiều vướng mắc. + Các tổ chức quản lý nguồn vốn còn phân tán, không đồng bộ, không quy được về một đầu mối quản lý để DNVVN tiếp cận một cách dễ dàng. 2.3. Nguồn vốn phi chính thức (PCT) ở Việt Nam có các hình thức huy động vốn phi chính thức như : Vay nhân thân bạn bè, người quen, nhân viên trong doanh nghiệp , hụi họ, cầm cố tài sản; Vay người cho vay chuyên nghiệp ; ứng trước vốn bằng bán non; ứng trước hàng hoá; nguyên vật liệu; bán trả chậm. Kết quả điều tra 5 tỉnh thành phố ta thấy trong 316 doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn thì có tỷ lệ các doanh nghiệp vay với hình thức phi chính thức như bảng dưới đây : Bảng 3: Các hình thức huy động vốn phi chính thức của DNVVN TT Các hình thức huy động vốn PCT Tỷ lệ doanh nghiệp vay 1 Vay nhân thân, bạn bè 48,4 2 Huy động qua hụi họ 3,2 3 ứng trước vốn của người bao tiêu sản phẩm 13,3 4 ứng trước vốn của người cung cấp NVL 20,9 5 Huy động thêm vốn để thực hiện doanh vụ 6,0 6 Vay người lao động trong DN 6,3 7 Hình thức khác 6,0 Nguồn : Báo cáo điều tra 5 tỉnh, thành phố của nhóm nghiên cứu (10/1998) Theo các chuyên gia tài chính, khó có thể định lượng chính xác quy mô vốn phi chính thức, nhưng có thể ước tính dựa vào tỷ trọng tiền mặt trong tổng lượng tiền lưu thông (M3). Tỷ trọng tiền mặt chiếm khoảng 33% tổng lương M3, hiện nay đó là 45%, tỷ lệ này là khá cao với các nước ASEAN(15%). Từ đó có thể thấy rằng quy mô vốn phi chính thức là khá lớn, chiếm khoảng 25% tổng vốn kinh doanh của DNVVN . Tuy nhiên về hình thức huy động vốn phi chính thức vẫn còn gặp nhiều khó khăn : lớn nhất đó là chưa có môi trường pháp lý thuận lợi, do đó một số hìng thức huy động vốn loại này thường dẫn đến đổ vỡ như hụi, họ, vay nóng… Ngoài ra còn có các khó khăn như lãi suất cao và thời hạn vay ngắn. Kết quả điều tra nhóm nghiên cứu thu được như sau : khó khăn lớn nhất là chưa được pháp luật bảo hộ (44,5% DN), tiếp đến lãi suất cao (31,6% DN); thời gian vay ngắn (24,7% DN), khó khăn khác (4,3%). Nhìn chung các hình thức huy động vốn phi chính thức chưa định hình cả về quy mô, lãi suất … Sự gặp gỡ giữa người vay và người cho vay mang tính tự phát, khi gặp trở ngại thường dẫn đến việc tự giải quyết với nhau, nên thường dẫn đến hậu quả khó lường trước. Phạm vi và quy mô nguồn vốn này không lớn, vì vậy khi vay chủ doanh nghiệp phải cân nhắc các nhận xét cá nhân của những người giúp đỡ tài chính, gây nên mối quan hệ tài chính cá nhân cao, thậm chí va chạm tới sự độc lập trong kinh doanh. 3. Nhận xét chung. Như vậy, qua thực trạng phân tích ở trên ta thâý đối với các DNVVN thì vốn đang trở thành một vấn đề bức xúc nhất hiện nay. Việc vay vốn là một khó khăn lớn mà không phải DNVVN nào cũng làm tốt được, điều này gây cản trở lớn đối với quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Để hiểu rõ vấn đề này, ta hãy tìm hiểu tại sao DNVVN lại gặp khó khăn trong việc huy động vốn. Nguyên nhân - Trước tiên phải nói đến đó là do chính đặc điểm của loại hình DNVVN là : Vốn ít, trình độ quản lý, năng lực công nghệ còn hạn chế, mức độ rủi ro của đầu tư khá cao vì vậy chưa hấp dẫn được các nhà đầu tư và thiếu vốn là một tất yếu. - Nguyên nhân bắt nguồn từ bên ngoài doanh nghiệp : + Môi trường kinh doanh chưa ổn định : tỷ lệ lạm phát cao, tỷ lệ gửi và cho vay trung và dài hạn thấp (từ 4-6% tổng mức cho vay ). Còn nhiều rối loạn do quá trình làm ăn chuyển đổi (là ăn chụp giựt …) tỷ lệ tiết kệm thấp (15%) là cản trở lớn đối với việc huy động vốn. + Chính sách, pháp luật : Tạo ra vấn dề bất bình đẳng khi cho vay vốn đối với DNVVN và doanh nghiệp khác. Mức độ đầu tư vốn cho các DNVVN còn hạn chế, các trung tâm hỗ trợ, tài trợ DNVVN được thành lập nhưng do không bám sát thức tế hoạt động còn mờ nhạt kém hiệu quả. + Nhà nước chưa thành lập được một tổ chức chặt chẽ dể hỗ trợ vốn cho DNVVN như nhiều quốc gia khác dã làm, chưa có được các chính sách hỗ trợ ưu tiên phát triển DNVVN tạo hành lang pháp lý cho các DNVVN . Các nguồn vốn lớn ( ODA < FID) thì giành cho các công trình lớn. + Ngân hàng : Huy động vốn trung và dài hạn của ngân hàng là thị trường chứng khoán, đang còn trong giai đoạn sơ khai, các sản phẩm trên thị trường tiền tệ chưa nhiều, khả năng thu hút lượng tiền nhàn rỗi trong dân còn yếu kém. Vì vậy các ngân hàng thường lâm vào tình trạng thiếu vốn để cho vay. Các ngân hàng thiếu sự liên thông, liên kết trong việc kiểm soát mọi hoạt động chu chuyển vốn của doanh nghiệp, các nhân viên ngân hàng chưa đủ kinh nghiệm kiến thức trong việc thẩm định các dự án của doanh nghiệp để ngân hàng cung cấp vốn cho doanh nghiệp hoạt động kinh doanh. DNVVN khi vay tiền ngân hàng thường cao, mà các DNVVN thường thiếu tài sản thế chấp, quyền sử dụng máy móc, thiết bị, nhà xưởng nhất là quyền sử dụng đất còn chưa được lâu dài. + Thị trường vốn, thị trường chứng khoán hiện nay đã có nhưng hoạt động còn ở mức độ sơ khai, chưa phát triển, chưa thể trở thành một kênh huy động vốn hiệu quả của doanh nghiệp. Chương III: Giải pháp huy động vốn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ I. Kinh nghiệm tham khảo chính sách huy động vốn đối với DNVVN ở một số nước. Nhật Bản và các nước châu á láng giềng khác đánh giá cao vai trò của DNVVN trong quá trình phát triển kinh tế của họ và xét theo quan điểm thúc đẩy kinh tế thị trường thì tất cả những nước này đều tích cực khuyến khích phát triển các DNVVN ngay từ giai đoạn ban đầu. Đối với các nước này, chính sách hỗ trợ huy động vốn đã góp phần không nhỏ đến sự phát triển thành công của các DNVVN . Chẳng hạn như đối với nước Đức, khu vực DNVVN đóng một vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế Đức, nó tạo ra gần 50% GDP, chiếm hơn một phần hai doanh thu chịu thuế của các doanh nghiệp, cung cấp các loại hàng hoá và dịch vụ đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng trong và ngoài nước. Để đạt được những thanh tựu đó, chính phủ Đức đã áp dụng hàng loạt chính sách và chương trình thúc đẩy DNVVN trong việc huy động các nguồn vốn. Công cụ chính để thực hiện các chính sách và chương trình hỗ trợ này là thông qua các khoản tín dụng ưu đãi, có sự bảo lãnh của nhà nước. Các khoản tín dụng này được phân bổ ưu tiên đặc biệt cho các dự án đầu tư thành lập DN, đổi mới công nghệ và vào những khu vực kém phát triển trong nước. Do phần lớn các DNVVN không đủ tài sản thế chấp để có thể nhận được khoản tín

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35570.doc
Tài liệu liên quan