Đề tài Tư tưởng hồ chí minh về con người mới

CHƯƠNG 1 3

1.1 NGUỒN GỐC HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH. 3

1.2 NỘI DUNG NGHIÊN CỨU VÀ GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH 6

CHƯƠNG 2 10

2.1 CON NGƯỜI LÀ MỘT CHỈNH THỂ.[1] 10

2.2 CON NGƯỜI CỤ THỂ, LỊCH SỬ 12

2.3 BẢN CHẤT CON NGƯỜI MANG TÍNH XÃ HỘI.[3] 14

CHƯƠNG 3 15

3.1 QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ CỦA CON NGƯỜI 15

3.2 CHIẾN LƯỢC HỒ CHÍ MINH VỀ QUAN ĐIỂM “TRỒNG NGƯỜI” 18

CHƯƠNG 4 24

4.2 NGƯỜI VIỆT NAM VỚI VĂN HÓA ỨNG XỬ CỘNG ĐỒNG 27

C. KẾT LUẬN CỦA NHÓM 33

TÀI LIỆU THAM KHẢO 35

 

 

 

doc35 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2209 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tư tưởng hồ chí minh về con người mới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đề cập đến giai cấp vô sản cách mạng và sự thống nhất về lợi ích căn bản của giai cấp đó với các tầng lớp nhân dân lao động khác (đặc biệt là nông dân). Người nhận thức một cách sâu sắc rằng, chỉ có cuộc cách mạng duy nhất và tất yếu đạt tới được mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và toàn thể nhân loại khỏi mọi sự nô dịch, áp bức. Toàn bộ các tư tưởng, lý luận (chiếm một khối lượng lớn trong các tác phẩm của Người) bàn về cách mạng (chiến lược giải pháp; bàn về người cách mạng và đạo đức cách mạng, về hoạch định và thực hiện các chính sách xã hội; về rèn luyện và giáo dục con người v.v .) về thực chất chỉ là sự cụ thể hóa bằng thực tiễn tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh. 2.2 CON NGƯỜI CỤ THỂ, LỊCH SỬ Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là một vấn đề có tính khái quát hóa và trừu tượng hóa mà là một vấn đề cụ thể, đó là nhân dân Việt Nam, “Lòng yêu nước và sự đoàn kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to lớn, không ai thắng nổi. Nhờ lực lượng ấy mà tổ tiên ta đã đánh thắng quân Nguyên, quân Minh, đã giữ vững quyền tự do, tự chủ. Nhờ lực lượng ấy mà chúng ta làm cách mạng thành công giành được độc lập. Nhờ lực lượng ấy mà sức kháng chiến của ta càng ngày càng mạnh. Nhờ lực lượng ấy mà quân và dân ta quyết chịu đựng muôn nỗi khó khăn, thiếu thốn, đói khổ, tang tóc, quyết một lòng đánh tan quân giặc cướp nước” và cũng có thể suy rộng ra là những “nô lệ mất nước” và “người cùng khổ”, “Ánh sáng trên đầu thần Tự Do tỏa rộng khắp trời xanh, còn dưới chân tượng thần Tự Do thì người da đen đang bị chà đạp, số phận người phụ nữ bị chà đạp. Bao giờ người da đen được bình đẳng với người da trắng? Bao giờ có sự bình đẳng giữa các dân tộc? Và bao giờ người phụ nữ được bình đẳng với nam giới?" Niềm tin của Bác hướng vào nhân dân. Cuộc chiến đấu chống áp bức sẽ không đi đến thắng lợi, nếu không "dựa vào lực lượng của toàn dân". Tấm lòng Hồ Chí Minh luôn hướng về con người. Người yêu thương con người, tin tưởng con người, tin và thương yêu nhân dân, trước hết là người lao động, nhân dân mình và nhân dân các nước. Với Hồ Chí Minh, "lòng thương yêu nhân dân, thương yêu nhân loại" là "không bao giờ thay đổi".[3] Quan điểm tin vào dân, đồng thời lại hết lòng thương dân, tình thương yêu nhân dân của Hồ Chí Minh có nguồn gốc sâu xa từ trong truyền thống dân tộc, truyền thống nhân ái ngàn đời của người Việt Nam. Cũng như bao nhà Nho yêu nước khác có cùng quan điểm "ái quốc là ái dân", nhưng điểm khác cơ bản trong tư tưởng "ái dân" của Người là tình thương ấy không bao giờ dừng lại ở ý thức, tư tưởng mà đã trở thành ý chí, quyết tâm thực hiện đến cùng sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng nhân loại cần lao, xóa bỏ đau khổ, áp bức bất công giành lại tự do, nhân phẩm và giá trị làmngười cho con người. ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước gắn bó không tách rời với chủ nghĩa quốc tế chân chính. Tình thương yêu cũng như toàn bộ tư tưởng về nhân dân của Người không bị giới hạn trong chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi mà nó tồn tại trong mối quan hệ khăng khít giữa các vấn đề dân tộc và giai cấp, quốc gia với quốc tế. Yêu thương nhân dân Việt Nam, Người đồng thời yêu thương nhân dân các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Trong sự nghiệp lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh luôn coi trọng sức mạnh đoàn kết toàn dân và sự đồng tình ủng hộ to lớn của bè bạn khắp năm châu, của cả nhân loại tiến bộ. Người cũng xác định sự nghiệp cách mạng của nước ta là một bộ phận không thể tách rời trong toàn bộ sự nghiệp đấu tranh giải phóng nhân loại trên phạm vi toàn thế giới. Có thể nói Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người luôn gắn liền với lịch sử, ý thức nhân dân gắn liền với độc lập dân tộc.Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, người cán bộ (kể cả lãnh tụ) chỉ là "đầy tớ trung thành" có sứ mệnh phục vụ nhân dân, lãnh tụ chỉ là người góp phần vào sự nghiệp cách mạng của quần chúng. Và đây, cũng chính là điều đã làm nên chủ nghĩa nhân văn cao cả ở Hồ Chí Minh, một chủ nghĩa nhân văn cộng sản trong cốt cách của một nhà hiền triết phương Đông. 2.3 BẢN CHẤT CON NGƯỜI MANG TÍNH XÃ HỘI.[3] Để sinh tồn, con người phải lao động sản xuất.Trong quá trình lao động, sản xuất ấy con người dần nhận thức được những hiện tượng, quy luật của tự nhiên, của xã hội; hiểu về mình và hiểu biết lẫn nhau…, xác lập các mối quan hệ giữa người với người. Con người là sản phẩm của xã hội, trong quan niệm của Hồ Chí Minh con người là sự tổng hợp các quan hệ xã hội từ hẹp đến rộng, chủ yếu bao gồm các quan hệ: anh em, họ hàng , bầu bạn, đồng bào , loài người… Nói tóm lại: Quan niệm về con người, coi con người là một thực thể thống nhất của "cái cá nhân" và "cái xã hội", con người tồn tại trong mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân với cộng đồng, dân tộc, giai cấp, nhân loại; yêu thương con người, tin tưởng tuyệt đối ở con người, coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp giải phóng xã hội và giải phóng chính bản thân con người, đó chính là những luận điểm cơ bản trong tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh. Xuất phát từ những luận điểm đúng đắn đó, trong khi lãnh đạo nhân dân cả nước tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, Hồ Chí Minh luôn tin ở dân, hết lòng thương yêu, quý trọng nhân dân, biết tổ chức và phát huy sức mạnh của nhân dân. Tư tưởng về con người của Người thông qua thực tiễn cách mạng của Người thông qua thực tiễn cách mạng đã trở thành một sức mạnh vật chất to lớn và là nhân tố quyết định thắng lợi của chính sự nghiệp cách mạng ấy. CHƯƠNG 3 QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ CỦA CON NGƯỜI VÀ CHIẾN LƯỢC “TRỒNG NGƯỜI” 3.1 QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ CỦA CON NGƯỜI a. Con người là vốn quý nhất, là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng[6] Theo Hồ Chí Minh, lịch sử là do quần chúng nhân dân sáng tạo ra, chứ không phải do vài ba cá nhân anh hùng nào, vì vậy chúng ta phải yêu dân, quý dân, trọng dân, vì "có dân là có tất cả". Người nói: "Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới, không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân". Do đó, "trong xã hội không có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ cho lợi ích của nhân dân". Từ đó, ta thấy nổi lên ở Hồ Chí Minh một tấm lòng yêu thương vô hạn đối với con người, một niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh và phẩm giá con người, một ý chí kiên quyết đấu tranh để giải phóng con người khỏi áp bức, bất công, đói nghèo, lạc hậu. Cũng có thể coi đó là những nội dung cơ bản của chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh. Lòng thương người của Hồ Chí Minh đồng nghĩa với tình yêu thương dành cho các dân tộc bị áp bức. Tình yêu thương đó luôn đi cùng với triết lý hành động vì con người. Đi tìm và khai phá con đường cách mạng, Nguyễn Ái Quốc luôn đặt vấn đề tự do song hành với hạnh phúc của dân tộc. Có người Mỹ nói: “Cụ Hồ vừa là Washington, vừa là Lincoln”[3]. Cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thắng lợi, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa non trẻ phải trải qua nạn đói khủng khiếp do Pháp – Nhật gây ra. Trong tình cảnh khó khăn ấy, Người chủ trương phát động nhân dân tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm. Bản thân Người gương mẫu mỗi tháng nhịn ăn ba bữa để góp gạo cứu đói. Ngay cả khi đi chiến dịch Biên giới, Người không chịu cưỡi ngựa mà cùng đi bộ với các cán bộ, chiến sĩ để ngựa thồ hành lý cho anh em. Khi đi thăm trại tù binh về, Người không còn áo khoác vì Người đã cho một tên tù binh bị rét cóng. Tình yêu thương của Hồ Chí Minh dành cho mọi kiếp người, mọi số phận. Một trong những học trò xuất sắc của Người là Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng viết “Những tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh là những tình cảm lớn. Trong đời hoạt động cách mạng của Bác, cũng như trong đời sống hàng ngày của mình, Hồ Chí Minh luôn đối xử với người có lý, có tình. Trong tình yêu đó có chỗ cho mọi người, không quên sót một ai và sắp xếp cho mọi người vị trí chiến đấu, cũng như lo lắng chu đáo cho mỗi người việc làm, đời sống và học tập, vừa nghiêm khắc đòi hỏi, vừa thương yêu dìu dắt… Đối với kẻ lầm đường, lạc lối, lòng Hồ Chủ tịch còn rộng hơn biển cả, Người dạy phải khoan hồng, vui mừng đón rước những đứa con vì cảnh ngộ mà lạc bầy. Chúa Jesus nói: gặp một người có lỗi mà hối cải thì trên trời vui mừng hơn gặp 99 vị tu hành. Cụ Hồ nói rằng “người Việt Nam ai cũng yêu nước, muốn nước thống nhất độc lập, ta khéo nhen chút than hồng ấy, nó sẽ cháy lên thành ngọn lửa”.[8] b. Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng,phải coi trọng, chăm sóc, phát huy nhân tố con người.[1] Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người hoàn toàn xa lạ với các quan điểm xem con người như là công cụ, như là phương tiện. Mọi chính sách tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hoá của Hồ Chí Minh đều hướng tới con người. Người nói: "Phải đem hết sức dân, tài dân, của dân để làm lợi cho dân", "dựa vào lực lượng của dân, tinh thần của dân để gây hạnh phúc cho dân", "chủ nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân và do nhân dân tự xây dựng lấy".[3] Người giải thích: dân là gốc của nước. Dân là người đã không tiếc máu xương để xây dựng và bảo vệ đất nước. Nước không có dân thì không thành nước. Nước do dân xây dựng nên, do dân đem xương máu ra bảo vệ, do vậy dân là chủ của nước. Qua đó, có thể thấy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người - mục tiêu và con người - động lực là thống nhất, vì dân và do dân là thống nhất. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân dân là người giữ vai trò quyết định trên tất cả các lĩnh vực: từ kinh tế, chính trị đến văn hóa, xã hội, từ những chuyện nhỏ có liên quan đến lợi ích của mỗi cá nhân đến những chuyện lớn như lựa chọn thể chế, lựa chọn người đứng đầu Nhà nước. Người dân có quyền làm chủ bản thân, nghĩa là có quyền được bảo vệ về thân thể, được tự do đi lại, tự do hành nghề, tự do ngôn luận, tự do học tập… trong khuôn khổ luật pháp cho phép. Người dân có quyền làm chủ tập thể, làm chủ địa phương, làm chủ cơ quan nơi mình sống và làm việc. Người dân có quyền làm chủ các đoàn thể, các tổ chức chính trị xã hội thông qua bầu cử và bãi miễn. Đúng như Hồ Chí Minh nói: "Mọi quyền hạn đều của dân". Cán bộ từ Trung ương đến cán bộ ở các cấp các ngành đều là "đầy tớ" của dân, do dân cử ra và do dân bãi miễn. Để phát huy vai trò động lực của con người, Hồ Chí Minh đã đề cập đến một hệ thống nội dung và biện pháp (vật chất và tinh thần) nhằm tác động vào các động cơ thúc đẩy tính tích cực hoạt động của con người. Đồng thời, cũng chỉ ra những nội dung và biện pháp làm triệt tiêu các trở lực nhằm thúc đẩy sự phát triển theo hướng tiến bộ. Trong hệ thống các động lực chính trị - tinh thần, Hồ Chí Minh chú trọng trước hết đến giáo dục chủ nghĩa yêu nước, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, đạo đức cách mạng... đồng thời không coi nhẹ vai trò tác động của các nhân tố tinh thần khác, như văn hoá, khoa học, pháp luật... đặc biệt, Người chú trọng phát huy quyền làm chủ của nhân dân, coi "thực hành dân chủ là cái chìa khoá vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn". Là nhà duy vật macxít, Hồ Chí Minh hiểu hành động của con người luôn gắn liền với nhu cầu và lợi ích của họ, vì vậy, đi đôi với các biện pháp chính trị - tinh thần, Hồ Chí Minh không coi nhẹ hay bỏ qua các động lực vật chất, khéo léo kết hợp các loại động lực với nhau, tạo sức mạnh tổng hợp, thúc đẩy tính năng động cách mạng của con người. Người tôn trọng và khuyến khích lợi ích cá nhân chính đáng của người lao động, chủ trương kết hợp hài hoà ba lợi ích, sao cho "Nhà nước, hợp tác xã và xã viên cùng có lợi". Nhưng muốn khai thông động lực thì phải khắc phục trở lực kìm hãm sự phát triển của con người, trong đó "căn bệnh mẹ" cực kỳ nguy hiểm là chủ nghĩa cá nhân phải được phê phán mạnh mẽ, kiên quyết tẩy trừ[7]. 3.2 CHIẾN LƯỢC HỒ CHÍ MINH VỀ QUAN ĐIỂM “TRỒNG NGƯỜI” a. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người: Trong sự nghiệp trồng người của mình, chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra một định nghĩa vô cùng giản dị mà đúng đắn về “con người”. Theo quan điểm của Người, “người” ở đây có ý nghĩa chính là gia đình, anh, em , bạn bè, cũng có nghĩa là cả dân tộc hay sâu xa hơn là cả thế hệ của loài người khắp thế giới và châu lục. Hồ Chí Minh không thừa nhận con người trừu tượng, con người không bao giờ tồn tại ở một khía cạnh, một chiều hướng mà ở nhiều bình diện, nhiều chiều, đó là bởi vì nó được đặt trong những mối quan hệ khác nhau: - Về quan hệ: Đó là quan hệ vũ trụ - tự nhiên, với tộc loại, cộng đồng, với nhóm xã hội và với chính bản thân mình. - Về vị trí: Đó là vị trí chủ động hay thụ động, quản lí hay bị quản lí, chủ thể hay khách thể... Không chỉ thế còn có một số mối quan hệ quan trọng khác nữa như tự mình làm chủ hay đánh mất chính mình ( Độc lập hay tha hóa ) …. Trong quá trình cách mạng, Hồ Chí Minh luôn cho rằng yếu tố con người là quan trọng nhất, là trung tâm của mọi sự vật hiện tượng. Chính vì vậy nên mục tiêu cao cả nhất của bác đó chính là giải phóng, đem lại hạnh phúc tự do, rèn luyện và xây dựng con người, Hồ Chí Minh đã cống hiến cả cuộc đời mình cho lý tưởng cao đẹp ấy. Người luôn đặt niềm tin vào phẩm chất và khả năng tốt đẹp của con người, luôn tạo điều kiện cho con người được phát triển một cách tốt đẹp hơn. Hồ chí minh không chấp nhận bất cứ hình thức lăng mạ, hạ nhục con người mà luôn động viên con người hạn chế mặt xấu và phát triển mặt tốt của mình. Xem xét con người trong các mối quan hệ xă hội - lịch sử cụ thể như nhân ái, tin tưởng vững chắc đối với con người; tất cả vì con người và do con người; thực hiện giải phóng con người bắt đầu từ giải phóng dân tộc; con người vừa là mục tiêu phục vụ, vừa là động lực cách mạng... đó là bản chất và cũng là đặc trưng của tư tưởng Hồ Chí Minh về con người. b. Chức năng của giáo dục – đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài:[4] Trong tư tưởng của Hồ Chí Minh, chiến lược “trồng người” là một vấn đề tối quan trọng, được xếp vào một trong sáu nhiệm vụ cấp bách nhất của đất nước thời bấy giờ. Không chỉ thế, giáo dục “trồng người” còn là việc thực hiện di chỉ của cha ông ta, các thế hệ đi trước về “khai trí” được trở thành hiện thực[3]. Chính vì những lẽ đó nên từ khi có chính quyền, người đã chủ động thực hiện nhiệm vụ khai trí cho dân dù cho đất nước có đang gặp rất nhiều khó khăn từ những cuộc chiến khốc liệt. Hồ Chí Minh đã từng nói rằng “giặc dốt” là vô cùng nguy hiểm, được xếp trên cả giặc ngoại xâm vì vậy nên chiến dịch “chống giặc dốt” đã được phát động một cách mạnh mẽ và được toàn dân hưởng ứng, đó là bước khởi đầu và cũng là nhiệm vụ thường xuyên của sự nghiệp mở mang dân trí của đảng ta. Người chỉ rõ: "Dốt nát cũng là kẻ địch... Địch thực dân dựa vào địch dốt nát để thi hành chiến lược ngu dân. Địch dốt nát dựa vào địch thực dân để đưa dân ta vào nơi mù quáng... Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Từ đó sự nghiệp giáo dục là của toàn thể dân tộc và đối tượng cũng là toàn thể dân tộc. Người đã cần cù mở từng lớp nhỏ, chắt chiu rèn luyện từng con người với cả một tấm lòng của sự nhiệt tình, kiên nhẫn và tràn ngập yêu thương. Ngoài ra người còn luôn luôn lắng nghe tiếp thu và học hỏi nhiều ý kiến của dân, Người viết “Dân rất thông minh, quần chúng kinh nghiệm, sáng kiến rất nhiều, chỉ cần mình có biết học hay biết lợi dụng mà thôi". Người căn dặn: “Phải học, học ở nhà trường, học trong sách vở, học ở quần chúng nhân dân, không học quần chúng là một sai lầm lớn”. Hồ Chí Minh luôn đề cao việc giáo dục trong sự nghiệp xây dựng đất nước, xây dựng CNXH. “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”. Người luôn đặt niềm tin tuyệt đối vào khả năng giáo dục nước nhà. Người chỉ rõ Tiền đồ của dân tộc chúng ta sẽ ra sao, một phần quan trọng lŕ do sự nghiệp giáo dục trực tiếp quyết định: “Ngủ thì ai cũng như lương thiện Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ hiền Hiền, dữ đâu phải là tính sẵn Phần nhiều do giáo dục mà nên".[8] Đặc biệt Hồ Chí Minh luôn tin tưởng vào các thế hệ thanh thiếu niên và đặt rất nhiều hy vọng vào những người chủ tương lại của đất nước, như người từng nói: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em". Tư tưởng trông người của Hồ Chí minh toàn diện cả về phương pháp lẫn về nội dung. c. Vai trò của giáo dục – đào tạo trong quá trình hình thành, phát triển và biến đổi của tính người, nhân cách con người: Trong con người luôn tồn tại cái thiện và cái ác. Hồ chí minh cho rằng “tính người” là do giáo dục và thực tiễn của mỗi người. Người luôn tin vào phẩm chất tốt đẹp luôn khuyến khích nâng niu gìn giữ cái tốt và loại bỏ dần cái xấu tôn lên mặt thiện của con người, người đã từng nói rằng “Mỗi con người đều có cái thiện và cái ác trong lòng, ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng”[8]. Nếu người xưa coi tốt xấu là do bản chất trời sinh của mỗi con người thì Hồ Chí Minh lại cho rằng hiền hay dữ “phần nhiều do giáo dục mà nên”. d. Giáo dục đạo đức cùng tài năng: Hồ Chí Minh bắt đầu từ việc xây dựng một nền tảng đạo đức vững chắc trong sự nghiệp “trồng người”. Người khẳng định: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” chính vì vậy nên tất cả mọi người, không trừ một ai phải tích cực thường xuyên trao dồi đạo đức cũng như tư tưởng cách mạng cho thật bền vững. Người rất coi trọng đạo đức nhưng cũng rất mực coi trọng tài năng, người luôn giang tay chào đón và trọng dụng những người có tài năng. Người đòi hỏi người cán bộ phải tinh thông công việc của mình, phải biết hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Bởi vì nếu như thiếu tính thành thạo trong công việc thì sẽ gây ra hậu quả khôn lường, nhất là những hoạt động liên quan đến nhà nước. Cả hai yếu tố giáo dục đạo đức và tài năng đều được người coi trọng. Vì vậy nên để phát triển toàn diện, người việt nam cần phải: Thường xuyên trau dồi đạo đức cách mạng, bồi dưỡng tinh thần nhân ái, khoan dung. Chú trọng phát triển đồng đều cả tri thức, tình cảm, ý chí. Phải có sự thống nhất giữa khối óc, trái tim và đôi bàn tay. Người dạy: “Những gương người tốt làm việc tốt muôn hình, muôn vẻ là vật liệu quý để các chú xây dựng con người… Lấy gương người tốt, việc tốt để hằng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới”. e. Bồi dưỡng thế hệ Cách mạng cho đời sau: Người đã từng viết trong di chúc của mình “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trong và rất cần thiết”.Trong việc giáo dục, bồi dưỡng những người kế tục ý tưởng của cách mạng, phải quan tâm đến đức và tài là điều vô cùng quan trọng. Người rất quan tâm tới những chiến sĩ trẻ tuổi trong các lực lượng vũ trang nhân dân và thanh niên xung phong và căn dặn: “Đảng và chính quyền cần chọn một số ưu tú nhất, cho các cháu ấy đi học thêm các ngành, các nghề, để đào tạo thành những cán bộ và công nhân có kỹ thuật giỏi, tư tưởng tốt, lập trường cách mạng vững chắc. Đó là đội quân chủ lực trong công cuộc xây dựng thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở nước ta”. Điều này thể hiện rõ tầm nhìn chiến lược của Hồ Chí Minh trong công cuộc lựa chọn rèn luyện các nhân tố của con người. Người rất quan tâm “chiêu hiền đãi sĩ”, “cầu người hiền tài” và luôn nhắc nhở phải “khéo dùng cán bộ”, phải “hiểu và đánh giá đúng cán bộ”, “có gan cất nhắc cán bộ”, muốn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém. Trong cách sử dụng con người trong bộ máy nhà nước, người luôn cân nhắc một cách hợp lý để đạt hiệu quả tốt nhất, không lãng phí nhân tài. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người trong chiến lược “trồng người” chính là sự kết tinh những tinh hoa cao đẹp của truyền thống dân tộc, nhân loại và tư tưởng của thời đại: Tư tưởng nhân đạo cộng sản. Ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới của đất nước, cùng với những mặt tích cực của cơ chế thị trường, những tác động tiêu cực đang xói mòn đạo đức, đời sống văn hóa của nhân dân ta. Song, Đảng ta nhất quán cho rằng: Chăm sóc, bồi dưỡng, phát huy nhân tố con người vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh và "phát triển con người với tư cách vừa là động lực, vừa là mục đích của cách mạng, của sự nghiệp đổi mới đất nước... Con người là vốn quý nhất, chăm lo cho hạnh phúc của con người là mục tiêu phấn đấu của chế độ ta”[8] CHƯƠNG 4 VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀO XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI 4.1 THỰC TRẠNG CỦA VIỆC THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI CỦA ĐẢNG VÀ LỐI SỐNG ĐẠO ĐỨC CỦA NGƯỜI DÂN TA HIỆN NAY. a. Thành tựu đạt được và những hạn chế trong chiến lược xây dựng con người mới của Đảng: Trong chiến lược xây dựng con người của Đảng ta, mà then chốt là vấn đề giáo dục-đào tạo, Đảng ta đã giải quyết một số vấn đề mà tại hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ường khoá IX Đảng ta đã khẳng định: Qua 5 năm thực hiện nghị quyết, nền giáo dục nước ta đã đạt chuẩn quốc gia về xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, tiến hành phổ cập trung học cơ sở ở một số tỉnh, thành phố trình độ dân trí và chất lượng nguồn lực con người được nâng lên, chất lượng giáo dục toàn diện có chuyển biến bước đầu. Sự nghiệp giáo dục ngày càng được đề cao và được toàn xã hội quan tâm. Song bên cạnh những thành tựu đạt được, nền giáo dục nước ta còn đứng trước nhiền khó khăn, yếu kém, nhất là về chất lượng và quản lý nhà nước về giáo dục. Cơ cấu giáo dục còn bất hợp lý, mất cân đối, nhiều nhu cầu nhân lực của nền kinh tế chưa được đáp ứng (kết luận của hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương khoá IX về tiếp tục thực hiện nghị quyết Trung ương khoá VIII...Tạp chí cộng sản số 25, 2002). Tuy nhiên, sau nhiều năm phát triển giáo dục-đào tạo ở nước ta, như nghị quyết hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương khoá VIII đã chỉ rõ, chưa đáp ứng kịp thời những đòi hỏi lớn và ngày càng cao về nhân lực cho công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nghị quyết hội nghị đã chỉ ra 5 yếu kém (về quy mô cơ cấu, về đội ngũ giáo viên, về chất lượng và hiệu quả, về kỷ cương trong giáo dục, về thực hiện công bằng xã hội) của ngành giáo dục và đào tạo của nước ta. Số liện thống kê xác nhận, chúng ta có hơn 10.000 giáo sư, PGS, Tiến sĩ, Thạc sĩ chiếm 2,3% tổng số lao động xã hội. Trong đó lĩnh vực khoa học công nghệ chiếm 15,4%, nhưng 67,5% của tổng số cán bộ kỹ thuật ấy lại làm việc trong lĩnh vực phi vật chất, còn sản xuất kinh doanh chỉ chiếm 32,7% (cán bộ khoa học - kỹ thuật cao trực tiếp làm việc trong các lĩnh vực sản xuất của Thái Lan là 58,8%, Hàn Quốc 48%, Nhật 64,4%). Trong khi cơ cấu và phân bổ cán bộ khoa học và công nghệ chưa cân đối, còn nhiều bất hợp lý, thì cán bộ có trình độ cao, giỏi chỉ lại tập trung làm việc chủ yếu ở cấc cơ quan trung ương. Rõ ràng ở cơ sở và các đơn vị sản xuất kinh doanh lại đang rất thiếu cán bộ có trình độ cao. Bộ giáo dục và đào tạo nhận định: để có mức tăng trưởng 9-10% GDP thì tốc độ tăng trưởng nguồn nhân lực khoa học kỹ thuật phải đạt từ 4-5%/năm. Trên thực tế, mặc dù đã có rất nhiều nỗ lực nhưng đào tạo chuyên gia trình độ cao mới chỉ đạt từ 2-3%/năm. Về văn hoá, cơ bản chúng ta đã phổ cập được ở diện rộng, nhưng trình độ chung của người lao động vẫn còn ở mức thấp, lao động có trình độ cấp 1 chiếm 12,72%, cấp 2 có hơn 40%, cấp 3 vào khoảng 30%, trung học chuyên nghiệp 6,84%, đại học 11%.[4] b.Thực trạng đạo đức của cán bộ, Đảng viên và thanh niên Việt Nam hiện nay: Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà nước ta đang tiến hành hiện nay đang tồn tại song song hai vấn đề về lối sống đạo đức của con người mà tiêu biểu là đội ngũ cán bộ, Đảng viên - những người chủ trì của đất nước, đó là hai mặt tích cực và tiêu cực. Mặt tích cực được thể hiện ở chỗ vẫn có nhiều người vẫn duy trỳ và phát huy được phẩm chất đạo đức cách mạng, đạo đức nghề nghiệp, sống và làm việc theo lý tưởng của Đảng, có lối sống văn minh, ý chí phấn đấu xây dựng nước nhà giàu mạnh và chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Bên cạnh đó tồn tại mặt trái là lối sống tiêu cực về đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên mà hội nghị Trung ương lần thứ sáu đã nhận định: "Tình trạng cán bộ thoái hoá, biến chất chưa được ngăn chặn và đẩy lùi. Trong đội ngũ cán bộ vẫn tồn tại tình trạng trì truệ, thiếu trách nhiệm và tính chiến đấu chưa cao". Biểu hiện của tình trạng thoái hoá khá phức tạp và đa dạng như bệnh chuyên quyền độ đoán, không tôn trọng dân chủ, bệnh quan liêu xa rời thực tiễn, xa rời nhân dân, bệnh xu nịnh và tâm lý cầu an hưởng lạc, không giám đấu tranh bảo vệ cái đúng, chống cái sai, chống chủ nghĩa cá nhân, thực dụng; chủ nghĩa địa phương hẹp hòi; lối sống xa hoa, đua đòi, thậm chí mê tín, dị đoan...Không chỉ có vậy mà còn có: ''biểu hiện của tư tưởng sùng ngoại, tôn sùng Chủ Nghĩa Tư Bản, chạy theo lối sống của xã hội tiêu thụ, tuyệt đối hoá giá trị vật chất, tiền bạc ''văn hoá'' lai căng, tự ti dân tộc, thậm chí phai nhạt ý thức giai cấp, niềm tin và lý tưởng cộng sản...đã xuất hiện một cách báo động". Trong tất cả những vấn nạn đó phải đặc biệt quan tâ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctu_tuong_ho_chi_minh_ve_con_nguoi_moi__6919.doc
Tài liệu liên quan