Tiểu luận Hoạt động cho vay theo hợp đồng tín dụng của các tổ chức tín dụng

Tư cách pháp nhân: được xác định dựa trên hai bằng chứng có ý nghĩa quyết định là giấy phép thành lập – hoạt động ngân hàng và giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh do các cơ quan có thẩm quyền của nhà nước cấp.

Năng lực và thẩm quyền đại diện của người đại diện hợp pháp cho ngân hàng thương mại: từ điều kiện này có thể khẳng định nếu thể nhân là người đại diện hợp pháp cho ngân hàng thương mại không có năng lực tiếp nhận quyền và thực hiện các quyền đó thay cho và nhân danh ngân hàng thương mại thì coi như ngân hàng thương mại đã không có khả năng thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình trong quan hệ pháp luật với chủ thể khác (nghĩa là không có năng lực hành vi). Mặt khác, cũng có thể xem như giao dịch thương mại của ngân hàng đã vi phạm điều kiện này khi có bằng chứng chứng minh rằng người xưng danh đại diện của ngân hàng thương mại không có thẩm quyền đại diện ngân hàng để xác lập và thực hiện giao dịch với khách hàng.

 

doc19 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 7105 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Hoạt động cho vay theo hợp đồng tín dụng của các tổ chức tín dụng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n cho vay:             Theo quy định của pháp luật hiện hành, một tổ chức tín dụng muốn trở thành chủ thể cho vay trong hợp đồng tín dụng phải thoả mãn các điều kiện sau: Có giấy phép thành lập và hoạt động do Ngân hàng Nhà nước cấp. Có điều lệ do Ngân hàng Nhà nước chuẩn y. Có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hợp pháp. Có người đại diện đủ năng lực và thẩm quyền để giao kết hợp đồng tín dụng với khách hàng.             Đối với tổ chức không phải là tổ chức tín dụng (TCTD), muốn trở thành chủ thể cho vay trong hoạt động tín dụng (HĐTD) thì chỉ cần thoả mãn các điều kiện như có giấy phép hoạt động ngân hàng, có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và có người đại diện hợp pháp. Trong giấy phép hoạt động ngân hàng và giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của loại tổ chức này phải ghi rõ hoạt động cho vay là hoạt động ngân hàng đươc phép thực hiện. b. Bên vay: Bên vay là tổ chức, cá nhân phải thoả mãn các điều kiện sau (về nguyên tắc, những điều kiện này có tính chất bắt buộc chung với mọi chủ thể đi vay trong mọi hợp đồng tín dụng): - Bên vay phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự. Đối với tổ chức là pháp nhân hay không phải là pháp nhân thì phải có người đại diện hợp pháp có đủ năng lực và thẩm quyền đại diện cho tổ chức đó khi ký kết hợp đồng tín dụng. - Mục đích sử dụng vốn vay phải hợp pháp. Ngoài ra bên vay còn có một số điều kiện chung sau (những điều kiện này chỉ có tính bắt buộc phải thỏa mãn đối với bên vay khi chúng được các bên thoả thuận rõ trong hợp đồng tín dụng): Bên vay có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết. Bên vay có phương án sử dụng vốn khả thi, hiệu quả. Bên vay có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc có bảo lãnh bằng tài sản của người thứ ba trên cơ sở hợp đồng cầm cố, hợp đồng thế chấp, hợp đồng bảo lãnh.             3. Giao kết hợp đồng tín dụng: Giao kết hợp đồng tín dụng là một quá trình mang tính chất kỹ thuật nghiệp vụ – pháp lý do các bên thực hiện theo một trình tự luật định. Việc giao kết hợp đồng tín dụng bao gồm các giai đoạn chủ yếu sau đây: Đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng: là hành vi pháp lý do một bên thực hiện dưới hình thức văn bản chính thức gửi cho bên kia, với nội dung thể hiện ý chí mong muốn được giao kết hợp đồng tín dụng. Thông thường, bên đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng là các tổ chức, cá nhân có nhu cầu vay vốn và văn bản đề nghị chính là đơn xin vay, được gửi kèm theo các giấy tờ, tài liệu chứng minh tư cách chủ thể và khả năng tài chính hay phương án sử dụng vốn vay. Các tài liệu này do bên vay gửi cho tổ chức tín dụng để xem xét, thẩm định và được coi như bằng chứng đề nghị giao kết hợp đòng tín dụng. Thực tiễn giao kết hợp đồng tín dụng ở Việt Nam trong những năm gần đây cho thấy, có nhiều trường hợp bên chủ động giao kết hợp đồng tín dụng lại chính là tổ chức tín dụng chứ không phải là khách hàng, nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh và mở rộng thị trường tín dụng. Những tổ chức tín dụng đã từng đi tiên phong trong việc lựa chọn phương thức này chính là các ngân hàng cổ phần, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. Trong trường hợp này, văn bản đề nghị là thư chào mời được tổ chức tín dụng gửi cho tổ chức, cá nhân có khả năng tài chính mạnh, có uy tín trên thương trường và có nhu cầu vay vốn thường xuyên (gọi là những khách hàng tiềm năng) mà tổ chức tín dụng lựa chọn là bên đối tác. Trong thư chào mời, bên đề nghị (tổ chức tín dụng) thường đưa ra những điều kiện có tính chất tổng quát nhất kèm theo những ước khoản cụ thể để cho bên kia xem xét chấp nhận. Tuy nhiên, do một thư chào mời có thể không nhất thiết phải là một văn bản dự thảo hợp đồng nên trong thực tế, nếu bên tiếp nhận thư chào mời có hành vi chấp nhận toàn bộ nội dung của thư chào mời đó thì không vì thế mà hợp đồng tín dụng được coi là đã hình thành. Thẩm định hồ sơ tín dụng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng: Thẩm định hồ sơ tín dụng: là tất cả những hành vi mang tính nghiệp vụ – pháp lý do tổ chức tín dụng thực hiện nhằm xác định các điều kiện vay vốn đối với bên vay, trên cơ sở đó mà quyết định cho vay hay không. Do tính đặc biệt quan trọng của giai đoạn này trong cả quá trình từ cho vay đến thu nợ nên pháp luật đòi hỏi bên cho vay là tổ chức tín dụng phải triệt để tuân thủ nguyên tắc đảm bảo tính độc lập, phân định rõ ràng trách nhiệm cá nhân và trách nhiệm liên đới giữa khâu thẩm định và khâu quyết định cho vay. Sau khi đã thẩm định hồ sơ tín dụng của khách hàng, bên cho vay có toàn quyền quyết định việc chấp nhận hoặc từ chối cho vay. Trong trường hợp từ chối cho vay, tổ chức tín dụng phải thông báo cho khách hàng bằng văn bản và phải nêu rõ lí do từ chối cho vay. Việc từ chối cho vay không có căn cứ xác đáng có thể là lí do để khách hàng thực hiện hành vi đối kháng với tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng: là hành vi pháp lý do bên nhận đề nghị thực hiện dưới hình thức một văn bản chính thức gửi cho bên kia với nội dung thể hiện sự đồng ý giao kết hợp đồng tín dụng. Theo đó, hành vi chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng chỉ có giá trị như một lời tuyên bố đồng ý ký kết hợp đồng chứ không thể thay thế cho việc giao kết hợp đồng giữa các bên. Có nghĩa là việc giao kết hợp đồng tín dụng chỉ được xem là hoàn thành sau khi các bên đã trải qua giai đoạn thương lượng, đàm phán trực tiếp các điều khoản của hợp đồng (bao gồm các điều khoản chủ yếu, điều khoản thường lệ, điều khoản tùy nghi) và người đại diện có thẩm quyền của các bên đã trực tiếp ký tên vào bản hợp đồng tín dụng. Đàm phán các điều khoản của hợp đồng tín dụng:  Đây là giai đoạn cuối cùng, cũng là giai đoạn trọng tâm của quá trình giao kết hợp đồng tín dụng. Trong giai đoạn này, các bên gặp nhau để đàm phán các điều khoản của hợp đồng tín dụng. Giai đoạn này được coi là kết thúc khi đại diện của các bên đã chính thức ký tên vào văn bản hợp đồng tín dụng.       4. Hình thức của hợp đồng tín dụng: Theo quy định tại Điều 51 Luật các tổ chức tín dụng, mọi hợp đồng tín dụng đều phải được ký kết bằng văn bản thì mới có giá trị pháp lý. Sở dĩ pháp luật quy định như vậy là vì những ưu điểm sau đây: - Hợp đồng tín dụng được ký kết bằng văn bản sẽ tạo ra một bằng chứng cụ thể cho việc thực hiện hợp đồng và giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng. - Việc ký kết hợp đồng tín dụng bằng văn bản thực chất là một sự công bố công khai, chính thức về mối quan hệ pháp lý giữa những người lập ước để cho người thứ ba biết rõ về việc lập ước đó mà có những phương cách xử sự hợp lý, an toàn trong trường hợp cần thiết. - Việc ký kết hợp đồng tín dụng bằng văn bản mới có thể khiến cho các cơ quan có trách nhiệm của chính quyền thi hành công vụ được tốt hơn.       Theo quy định hiện hành, văn bản hợp đồng tín dụng được hiểu bao gồm văn bản viết và văn bản điện tử. Hợp đồng tín dụng được xác lập thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu được coi là giao dịch bằng văn bản. Các hợp đồng điện tử được coi là có giá trị pháp lý như văn bản hợp đồng viết và có giá trị chứng cứ trong quá trình giao dịch.       5. Nội dung của hợp đồng tín dụng       Nội dung của hợp đồng tín dụng là tổng thể những điều khoản do các bên có đủ tư cách chủ thể cam kết với nhau một cách tự nguyện, bình đẳng và phù hợp với pháp luật. Các điều khoản này vừa thể hiện ý chí của các bên, đồng thời cũng làm phát sinh những quyền và nghĩa vụ pháp lý cơ bản của mỗi bên tham gia hợp đồng tín dụng.       Theo quy định tại điều 51 Luật các tổ chức tín dụng, nội dung của hợp đồng tín dụng bao gồm các điều khoản cơ bản sau đây: - Điều khoản về điều kiện vay vốn. Khi thỏa thuận điều khoản này, các bên cần ghi rõ trong hợp đồng tín dụng những tiêu chuẩn cụ thể mà bên vay phải thỏa mãn thì hợp đồng tín dụng mới có hiệu lực. - Điều khoản về đối tượng hợp đồng. Trong điều khoản này, các bên phải thỏa thuận về số tiền vay, lãi suất cho vay, tổng số tiền phải trả khi hợp đồng tín dụng đáo hạn. - Điều khoản về thời hạn sử dụng vốn vay. Các bên phải ghi rõ trong hợp đồng tín dụng về ngày, tháng, năm trả tiền, hoặc phải trả tiền sau bao lâu kể từ ngày ký hợp đồng. Nếu có thể gia hạn hợp đồng thì các bên cũng dự liệu trước về khả năng này trong hợp đồng tín dụng, còn thời gian gia hạn sẽ tiến hành thỏa thuận sau trong quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng. - Điều khoản về phương thức thanh toán tiền vay. Đây là một điều khoản rất quan trọng vì nó liên quan trực tiếp đến việc thu hồi vốn và lãi cho vay. Vì thế, các bên phải thỏa thuận rõ ràng số tiền vay sẽ được hoàn trả dần hàng tháng (trả góp) hay là trả toàn bộ một lần khi hợp đồng vay đáo hạn. Nếu khoản vay được thỏa thuận thanh toán theo từng kỳ hạn thì các bên cũng có thể dự liệu trước về khả năng điều chỉnh kỳ hạn trả nợ cho phù hợp với khả năng tài chính của bên vay khi trả nợ. - Điều khoản về mục đích sử dụng tiền vay. Trong điều khoản này, các bên cần ghi rõ vốn vay sẽ được sử dụng vào mục đích gì. Việc thỏa thuận điều khoản này trong hợp đồng tín dụng được xem như một giải pháp đảm bảo sự an toàn về vốn cho người đầu tư là các tổ chức tín dụng, nhằm tránh trường hợp bên vay sử dụng vốn một cách tùy tiện vào mục đích phiêu lưu, mạo hiểm. Mặt khác, để bảo đảm lợi ích của cả hai bên và đảm bảo cho đồng vốn đầu tư được sử dụng hiệu quả, pháp luật cũng cho phép trong thời gian sử dụng vốn, các bên có quyền thỏa thuận lại về mục đích sử dụng vốn vay mỗi khi xét thấy thời cơ và điều kiện sử dụng vốn đã thay đổi. - Điều khoản về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng. Đây là điều khoản mang tính chất thường lệ, theo đó các bên có quyền thỏa thuận về biện pháp giải quyết tranh chấp bằng con đường thương lượng, hòa giải hoặc lựa chọn cơ quan tài phán sẽ giải quyết tranh chấp cho mình. Nếu trong hợp đồng tín dụng không ghi điều khoản này, có nghĩa là các bên không thỏa thuận thì việc xác định thẩm quyền, thủ tục giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng đó sẽ được thực hiện theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, nếu hợp đồng tín dụng được giao kết có điều kiện bảo đảm bằng tài sản như cầm cố, thế chấp, bảo lãnh thì các bên có thể thỏa thuận một điều khoản riêng rẽ nằm trong hợp đồng tín dụng (hợp đồng chính), hoặc lập thành một hợp đồng phụ đính kèm theo hợp đồng chính.       6. Quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng tín dụng                6.1. Quyền và nghĩa vụ của bên cho vay: - Nghĩa vụ chuyển giao tiền vay đầy đủ, đúng hạn và địa điểm cho khách hàng vay sử dụng (nghĩa vụ giải ngân). - Nghĩa vụ kiểm tra, giám sát việc sử dụng tiền vay và trả nợ của khách hàng. - Quyền yêu cầu bên vay hoàn trả tiền vay đúng thỏa thuận, kể cả tiền phạt, tiền bồi thường thiệt hại (nếu có).                6.2. Quyền và nghĩa vụ của bên vay: - Quyền từ chối các yêu cầu không hợp lý của tổ chức tín dụng khi ký kết, thực hiện và thanh lý hợp đồng tín dụng. - Quyền khiếu nại, khởi kiện việc từ chối cho vay không có căn cứ hoặc các vi phạm hợp đồng tín dụng của tổ chức tín dụng. - Quyền yêu cầu bên cho vay thực hiện nghĩa vụ giải ngân đúng thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. - Nghĩa vụ sử dụng tiền vay hiệu quả và đúng mục đích đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. - Nghĩa vụ hoàn trả tiền vay cả gốc và lãi, trả tiền phạt vi phạm hợp đồng tín dụng và tiền bồi thường thiệt hại cho bên cho vay (nếu có).       7. Vấn đề hiệu lực của hợp đồng tín dụng: 7.1. Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng tín dụng       Hiệu lực pháp lí của giao dịch nói chung và giao dịch thương mại TCTD nói riêng, thực chất là sự thừa nhận của Nhà nước về những hệ quả pháp lí phát sinh bởi hành vi giao dịch của TCTD đối với khách hàng. Việc thừa nhận hiệu lực của một giao dịch pháp lí được Nhà nước thực hiện bằng cách quy định các điều kiện có hiệu lực của giao dịch và các nguyên tắc xác định hiệu lực của giao dịch đó. Ở nước ta, các điều kiện này được quy định tại Điều 122 Bộ luật Dân sự 2005 và đương nhiên chúng được áp dụng chung cho mọi giao dịch, trong đó HĐTD với tư cách là một loại hình giao dịch dân sự đặc thù chỉ có hiệu lực khi thỏa mãn đầy đủ các điều kiện sau: Thứ nhất, “chủ thể tham gia HĐTD có năng lực hành vi dân sự”. Bên vay gồm cá nhân, tổ chức phải thỏa mãn điều kiện có đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự. Bên cho vay: do tính chất đặc thù của hoạt động ngân hàng nên TCTD phải thỏa mãn 2 điều kiện: Tư cách pháp nhân: được xác định dựa trên hai bằng chứng có ý nghĩa quyết định là giấy phép thành lập – hoạt động ngân hàng và giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh do các cơ quan có thẩm quyền của nhà nước cấp. Năng lực và thẩm quyền đại diện của người đại diện hợp pháp cho ngân hàng thương mại: từ điều kiện này có thể khẳng định nếu thể nhân là người đại diện hợp pháp cho ngân hàng thương mại không có năng lực tiếp nhận quyền và thực hiện các quyền đó thay cho và nhân danh ngân hàng thương mại thì coi như ngân hàng thương mại đã không có khả năng thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình trong quan hệ pháp luật với chủ thể khác (nghĩa là không có năng lực hành vi). Mặt khác, cũng có thể xem như giao dịch thương mại của ngân hàng đã vi phạm điều kiện này khi có bằng chứng chứng minh rằng người xưng danh đại diện của ngân hàng thương mại không có thẩm quyền đại diện ngân hàng để xác lập và thực hiện giao dịch với khách hàng. Thứ hai, “mục đích và nội dung của giao dịch không trái pháp luật và đạo đức xã hội”. Đây là điều kiện được pháp luật quy định nhằm bảo vệ quyền lợi công, xét trong mối quan hệ tương hỗ với quyền lợi tư của các bên giao dịch. Đối với các giao dịch thương mại của ngân hàng thương mại, mục đích và nội dung giao dịch không chỉ phản ánh lợi ích của các bên mà còn bị chi phối bởi chính các lợi ích đó. Mục đích của giao dịch thương mại giữa ngân hàng và khách hàng sẽ bị coi là trái pháp luật và đạo đức xã hội khi giao dịch đó được các bên xác lập nhằm vi phạm các quy tắc pháp lí đã được Nhà nước xây dựng để bảo vệ quyền lợi chung hoặc nhằm xâm hại các giá trị đạo đức đã được Nhà nước và xã hội thừa nhận. Ví dụ, nếu ngân hàng và khách hàng giao kết hợp đồng tài khoản tiền gửi là để giúp cho khách hàng thực hiện hành vi “rửa tiền” đối với nguồn thu nhập do phạm pháp mà có thì giao dịch này được xem là có mục đích trái pháp luật.   Còn nội dung của giao dịch thương mại ngân hàng sẽ bị coi là trái pháp luật và đạo đức xã hội khi các điều khoản được cam kết bởi ngân hàng và khách hàng đã vi phạm các điều cấm của pháp luật hoặc vi phạm các chuẩn mực đạo đức đã được Nhà nước thừa nhận. Ví dụ, Ngân hàng A kí kết hợp đồng tín dụng để cho vay đối với khách hàng là con đẻ của Tổng giám đốc ngân hàng A. Giao dịch này có nội dung vi phạm điểm c khoản 1 Điều 77 Luật Các tổ chức tín dụng nên về nguyên tắc giao dịch sẽ đương nhiên vô hiệu ngay từ khi xác lập. Thứ ba, “có sự đồng thuận ý chí giữa các bên cam kết trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng và tự do ý chí”. Điều kiện này liên quan mật thiết với điều kiện về năng lực hành vi dân sự của chủ thể tham gia giao dịch. Chỉ khi nào xác định rõ chủ thể giao dịch có đầy đủ năng lực hành vi dân sự thì việc xác định tính tự nguyện và tự do ý chí của chủ thể đó mới chính xác và khoa học. Đối với chủ thể giao dịch là pháp nhân ngân hàng thương mại, việc xác định tính tự nguyện và tự do ý chí có phần khác biệt và phức tạp hơn so với chủ thể giao dịch là thể nhân. Điều này thể hiện ở chỗ, ý chí của pháp nhân ngân hàng thương mại thực chất là ý chí tập thể của các thành viên pháp nhân và ý chí này thường được thể hiện thông qua các quyết định của tập thể thành viên pháp nhân hoặc thể hiện thông qua hành vi của những người đại diện hợp pháp cho pháp nhân ngân hàng thương mại. Một HĐTD được coi là không có sự đồng thuận khi sự thỏa thuận đó giữa các bên bị các khiếm khuyết như sự nhầm lẫn, sự lừa dối, lường gạt học sự ép buộc, cưỡng bức trong khi giao kết hợp đồng. Trên nguyên tắc, các khuyết tật này phải ảnh hưởng mang tính quyết định đến ý chí giao kết của các bên mới được coi là sự kiện pháp lý làm cho HĐTD vô hiệu. Thứ tư, “hình thức của giao dịch”. Đối với các giao dịch dân sự mang tính đặc thù như giao dịch thương mại của ngân hàng thương mại, vấn đề hình thức của giao dịch có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bởi lẽ loại giao dịch này cần được pháp luật quy định chặt chẽ về mặt hình thức nhằm ngăn ngừa các rủi ro pháp lí cho các bên trong quá trình xác lập và thực hiện giao dịch nên pháp luật ngân hàng đòi hỏi hình thức của HĐTD phải được xem là một trong những điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Xuất phát từ yêu cầu này của thực tiễn giao dịch ngân hàng, pháp luật đòi hỏi hầu hết các giao dịch loại này phải được xác lập dưới hình thức văn bản  hay tài liệu giao dịch hợp thức và có giá trị chứng cứ chứng minh nội dung cam kết của các bên 7.2. Thời điểm phát sinh hiệu lực của HĐTD:       Thời điểm phát sinh hiệu lực của HĐTD là điểm mốc thời gian mà kể từ đó quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên tham gia HĐTD bắt đầu phát sinh. Trên thực tế, pháp luật của từng nước có những quy định rất khác nhau về thời điểm phát sinh hiệu lực của HĐTD. Còn ở Việt Nam, theo Đ405 BLDS 2005 ta có thể lý giải rằng thời điểm phát sinh hiệu lực của HĐTD là thời điểm các bên đã thỏa thuận xong các điều khoản của hợp đồng và bên sau cùng đã ký tên vào văn bản HĐTD. 7.3. Sự vô hiệu của HĐTD và các nguyên tắc xử lí hậu quả vô hiệu:         Trên nguyên tắc, khi một HĐTD không thoả mãn một trong số các điều kiện có hiệu lực do pháp luật quy định thì giao dịch đó bị coi là vô hiệu và sự vô hiệu này, về lí thuyết có thể được nhìn nhận là ở trạng thái tuyệt đối (đương nhiên vô hiệu) hoặc tương đối (có thể vô hiệu).         Trong khoa học pháp lí, việc xác định trạng thái vô hiệu (tuyệt đối hoặc tương đối) của các giao dịch pháp lí nói chung và giao dịch thương mại của ngân hàng nói riêng thường dựa vào nguyên tắc cơ bản là: Nếu giao dịch được xác lập nhưng vi phạm những quy tắc pháp lí có mục đích bảo vệ lợi ích công hay trật tự công thì hậu quả kéo theo là giao dịch đó đương nhiên vô hiệu ngay từ khi xác lập (vô hiệu tuyệt đối) và bất kì ai quan tâm đến lợi ích chung đều có thể yêu cầu toà án tuyên bố vô hiệu. Ngược lại, nếu giao dịch được xác lập nhưng chỉ vi phạm các quy tắc pháp lí có mục đích bảo vệ lợi ích tư hay quyền lợi tư của các bên tham gia vào giao dịch thì hậu quả kéo theo là giao dịch đó có thể bị coi là vô hiệu (vô hiệu tương đối) và chỉ những người có quyền lợi bị xâm hại (gồm các bên của giao dịch hay người thứ ba không tham gia vào giao dịch nhưng có quyền lợi liên quan) mới có quyền yêu cầu toà án tuyên bố giao dịch vô hiệu để bảo vệ quyền lợi của mình. III. THỰC TIỄN PHÁP LÝ VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY THEO HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG Trong những năm qua, pháp luật về hoạt động cho vay theo HĐTD của các TCTD đã không ngừng được xây dựng và hoàn thiện. Tuy nhiên, thực tế hoạt động cho vay của ngân hàng cho thấy, đã phát sinh nhiều bất cập trong các chính sách của Nhà nước, thực tiễn pháp lý về hoạt động này vẫn còn tồn tại không ít những vấn đề bất cập. Thứ nhất, một số quy định cho vay chưa phù hợp với thực tiễn của hoạt động tín dụng ngân hàng. Điều 19 Quyết định 1627/2011/QĐ – NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2001 quy định những đối tượng không được giao kết hợp đồng tín dụng. Quy định này còn hơi cứng nhắc, nếu họ có tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc sử dụng một cách hợp pháp và muốn sử dụng để cầm cố thế chấp tại ngân hàng họ đang quản lý hoặc làm việc thì việc cho vay đối với những đối tượng này không có gì mất an toàn, miễn là họ sử dụng vốn vay một cách đúng quy định. Ngân hàng cho khách hàng vay dựa trên những phương án khả thi, tài sản bảo đảm thì tại sao những người này đủ tiêu chuẩn lại không cho vay. Quy định này đã phần nào loại bỏ một bộ phân không nhỏ những khách hàng có tiềm năng của ngân hàng. Thứ hai, quy định về giới hạn cho vay đối với một khách hàng còn nhiều bất cập. Điều 20 Luật các tổ chức tín dụng quy định tổ chức tín dụng không được phép cho một khách hàng vay quá 15% vốn điều lệ của tổ chức tín dụng, nếu vượt quá phải xin phép chính phủ. Trên thực tế, khoảng thời gian cần thiết từ khi tổ chức tín dụng đề nghị qua Ngân hàng Nhà nước lên tới Chính phủ đến khi có quyết định được phép cho vay thường kéo dài vài tháng, làm lỡ nhiều cơ hội kinh doanh và không phù hợp với cải cách hành chính hiện nay. Luật cũng quy định tổng dư nợ cho vay đối với 10 khách hàng lớn nhất không vượt quá 30% tổng dư nợ của tổ chức tín dụng. Với giới hạn cho vay thấp như vậy sẽ khiến cho các tổ chức tín dụng muốn tài trợ cho những dự án lớn không thể thực hiện được. Thứ ba, một số quy định về cơ chế bảo đảm tiền vay và xử lý tài sản bảo đảm tiền vay chưa thích hợp. Chẳng hạn, pháp luật hiện hành cho phép được sử dụng tài sản bảo đảm là tài sản hình thành trong tương lai. Tuy nhiên, do là tài sản trong tương lai nên không thể chắc chắn rằng tài sản đó được hình thành để cho ngân hàng xử lý, bù lại mất mát nếu xảy ra tranh chấp. Mặt khác, sự thiếu đồng bộ, thiếu nhất quán giữa các quy định pháp luật về giao dịch bảo đảm tiền vay với các bộ phận pháp luật khác có liên quan như Bộ luật dân sự, pháp luật đất đai, pháp luật hợp đồng, pháp luật về giải quyết tranh chấp… là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những khó khăn, vướng mắc trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm tiền vay. Các khó khăn này không chỉ xảy ra cho khách hàng khi thực hiện thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh tài sản để vay vốn tổ chức tín dụng mà còn gây khó khăn cho chính các tổ chức tín dụng ngay trong quá trình thẩm định và phê duyệt các khoản vay có bảo đảm. Bất cập trong việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay. Hiện nay, các văn bản pháp lý liên quan đến vấn đề tài sản đảm bảo là rất quan trọng đối với việc làm giảm các thiệt hại, rủi ro cho hoạt động ngân hàng trong trường hợp khách hàng không trả được nợ vay. Tuy nhiên, các văn bản liên quan đến việc giải quyết tài sản đảm bảo này vẫn còn những bất cập, gây không ít khó khăn cho việc xử lý tài sản đảm bảo ở các tổ chức tín dụng. Theo Nghị định số 163/2006 về giao dịch đảm bảo thì tổ chức tín dụng là chủ nợ được trực tiếp thu hồi nợ để phát mại tài sản nhưng việc này lại không hề đơn giản bởi Nghị định 163/2006 quy định rất rõ về nội dung cách thức, thời gian xử lý tài sản đảm bảo nhưng lại không hề quy định có sự hỗ trợ của Công an, chính quyền địa phương, cơ quant hi hành án trong trường hợp người vay không tự nguyện giao tài sản. Việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay là quyền sử dụng đất và bất động sản còn phụ thuộc rất nhiều vào các cơ quan hữu quan khi con nợ cố tình trì hoãn thời gian xử lý tài sản bảo đảm dẫn đến ngân hàng không thu hồi được nợ. Việc đưa tài sản thế chấp ra đấu giá thông qua trung tâm đấu giá mất nhiều thời gian, thủ tục rườm rà, gây thiệt hại cho tổ chức tín dụng vì phát sinh chi phí cho việc tổ chức đấu giá. Một vướng mắc nữa trong việc xử lý tài sản bảo đảm là khi tổ chức tín dụng tiến hành các thủ tục để thu hồi tài sản để bán tài sản thì mới phát hiện ra tài sản đã bị người vay bán cho người khác. Có thực tế này là do hành lang pháp lý cho giao dịch bảo đảm chưa đồng bộ và thiếu thống nhất giữa các văn bản, việc đăng kí giao dịch bảo đảm thực hiện phân tán ở nhiều cơ quan khác, tạo kẽ hở trong quản lý. Đơn cử như việc xe ô tô được đăng kí tại phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh, thành phố nhưng khi cầm cố, thế chấp lại được đăng kí ở cục đăng kí giao dịch bảo đảm. Sau khi vay được tiền, chủ xe báo mất đăng kí xe để cơ quan công an cấp lại rồi bán xe cho người khác và làm thủ tục sang tên mà không bị phát hiện. Tất cả những khó khăn trên trong quá trình thu hồi nợ làm cho tỉ lệ nợ quá hạn của các tổ chức tín dụng ngày càng cao, nhất là trong giao đoạn hiện nay, khi mạng lưới tín dụng đang được mở rộng. Thứ tư, các quy định khống chế lãi suất trần không phù hợp. Tại Điều 476 Bộ Luật dân sự quy định: “ Lãi suất vay do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá 150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng”. Theo phân tích của hiệp hội ngân hàng Việt Nam, quy định này không phù hợp bởi các lý do sau: Một là, việc khống chế trần lãi suất cho vay như thời gian qua là biện pháp can thiệp hành chính không phù hợp với nền kinh tế thị trường, làm hạn chế sự chủ động và linh hoạt của các tổ chức tín dụng trong vấn đề huy động vốn và cho vay, vì lãi suất hình thành dựa trên quan hệ cung cầu vốn của thị trường. Hai là, việc khống chế trần lãi suất cho vay tức là đánh đồng lãi suất của các loại hình tín dụng vì mỗi loại hình tín dụng có mức độ rủi ro khác nhau, chi phí khác nhau, vì vậy lãi suất cho vay khác nhau. Chính sách lãi suất trần cứng nhắc làm cho các ngân hàng rất khó đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ, mặt khác, cũng làm hạn chế sự phát triển của các dịch vụ tài chính mới của các ngân hàng như tín dụng bán lẻ, tín dụng tiêu dùng, đây là những sản phẩm tất yếu của tổ chức tín dụng hiện đại. Ba là, để kiểm soát sự biến động bất thường của lãi suất trên thị trường tiền tệ, ngân hàng nhà nước đã có các công cụ để kiểm soát như lãi suất tái chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn, nghiệp vụ thị trường mở và điều hành khối lượng tiề

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docHoạt động cho vay theo hợp đồng tín dụng.doc
Tài liệu liên quan