Đề tài Đa dạng sinh học ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

Vườn quốc gia đầu tiên được thành lập từ năm 1962 và rất nhiều bộ luật, quy tắc, quy chế, thông tư chỉ thị phản ánh rằng nhà nước đã, cam kết về bảo tồn đa dạng sinh học.

Chính sách về đa dạng sinh học đã được xác định trong Chiến lược bảo tồn quốc gia (NCS) được xây dựng năm 1985 với các mục tiêu sau:

 Đáp ứng những nhu cầu cơ bản về văn hoá, tinh thần và vật chất của người dân Việt Nam (cả thế hệ hiện tại và tương lai) thông qua việc quản lý khôn ngoan các nguồn tài nguyên thiên nhiên.

 Xác định và xây dựng các chính sách, kế hoạch, tổ chức và hành động, sao cho việc sử dụng ổn định các nguồn tài nguyên thiên nhiên hoàn toàn thống nhất với mọi phương diện phát triển kinh tế và xã hội của đất nước.

Năm 1991, các nguyên tắc đề ra trong NCS đã được sàng lọc lại trong kế hoạch quốc gia về môi trường và phát triển lâu bền, kết hợp với các chính sách liên quan về kế hoạch tập trung và vấn đề chính các Bộ quan tâm. Chủ tịch Uỷ ban khoa học và kỹ thuật nhà nước được giao trách nhiệm thực hiện phối hợp kế hoạch này. Năm 1992, uỷ ban này đã được tổ chức lại thành Bộ Khoa Học, Công nghệ và môi trường (MOSTE). Năm 1993 cục môi trường quốc gia được thành lập là một trong những Cục Vụ của MOSTE .

 

doc28 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5707 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đa dạng sinh học ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g nghiệp và khu đô thị là những kiểu hệ sinh thái nhân tạo, thành phần loài sinh vật nghèo nàn. Xét theo tính chất cơ bản là thảm thực vật bao phủ đặc trưng cho rừng mưa nhiệt đới ở Việt Nam, có thể thấy các kiểu rừng tiêu biểu: rừng kín vùng thấp, rừng thưa, trảng truông, rừng kín vùng cao, quần hệ lạnh vùng cao. Trong đó, các kiểu và kiểu phụ thảm thực vật sau đây có tính ĐDSH cao hơn và đáng chú ý hơn cả: kiểu rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới; kiểu rừng thưa cây lá rộng hơi khô nhiệt đới; kiểu rừng kín cây lá rộng, ẩm ướt nhiệt đới núi thấp; kiểu phụ rừng tręn núi đá vôi. Hệ sinh thái đất ngập nước: Công ước Ramsar định nghĩa "Đất ngập nước là những vùng đầm lầy, than bùn hoặc vùng nước bất kể là tự nhiên hay nhân tạo, thường xuyên hay tạm thời, có nước chảy hay nước tù, là nước ngọt, nước lợ hay nước biển kể cả những vùng nước biển có độ sâu không quá 6 mét khi triều thấp". Đất ngập nước (ĐNN) Việt Nam rất đa dạng về loại hình và hệ sinh thái, thuộc 2 nhóm ĐNN: ĐNN nội địa, ĐNN ven biển. Trong đó có một số kiểu có tính ĐDSH cao: Rừng ngập mặn ven biển: Rừng ngập mặn có các chức năng và giá trị như cung cấp các sản phẩm gỗ, củi, thủy sản và nhiều sản phẩm khác; là bãi đẻ, bãi ăn và ương các loài cá, tôm, cua và các loài thủy sản có giá trị kinh tế khác; xâm chiếm và cố định các bãi bùn ngập triều mới bồi, bảo vệ bờ biển chống lại tác động của sóng biển và bão tố ven biển; là nơi cư trú cho rất nhiều loài động vật hoang dã bản địa và di cư (chim, thú, lưỡng cư, bò sát). Đầm lầy than bùn: đầm lầy than bùn là đặc trưng cho vùng Đông Nam Á. U Minh thượng và U Minh hạ thuộc các tỉnh Kiên Giang, Cà Mau là hai vùng đầm lầy than bùn tiêu biểu còn sót lại ở đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam. Đầm phá: thường thấy ? vùng ven biển Trung bộ Việt Nam. Do đặc tính pha trộn giữa khối nước ngọt và nước mặn nên khu hệ thủy sinh vật đầm phá rất phong phú bao gồm các loài nước ngọt, nước lợ và nước mặn. Cấu trúc quần xã sinh vật đầm phá thay đổi theo mùa rõ rệt. Rạn san hô, cỏ biển: đây là các kiểu hệ sinh thái đặc trưng cho vùng biển ven bờ, đặc biệt rạn san hô đặc trưng cho vùng biển nhiệt đới. Quần xã rạn san hô rất phong phú bao gồm các nhóm động vật đáy (thân mềm, giáp xác), cá rạn. Thảm cỏ biển thường là nơi cư trú của nhiều loại rùa biển và đặc biệt loài thú biển Dugon. Vùng biển quanh các đảo ven bờ: ven bờ biển Việt Nam có hệ thống các đảo rất phong phú. Vùng nước ven bờ của hầu hết các đảo lớn được đánh giá có mức độ ĐDSH rất cao với các hệ sinh thái đặc thù như rạn san hô, cỏ biển... Việt Nam có 2 vùng ĐNN quan trọng là ĐNN vùng cửa sông đồng bằng sông Hồng và ĐNN đồng bằng sông Cửu Long: ĐNN ở vùng cửa sông đồng bằng sông Hồng có diện tích 229.762 ha. Đây là nơi tập trung các hệ sinh thái với thành phần các loài thực vật, động vật vùng rừng ngập mặn phong phú, đặc biệt là nơi cư trú của nhiều loài chim nước. ĐNN đồng bằng sông Cửu Long có diện tích đất ngập nước 4.939.684 ha. Đây là bãi đẻ quan trọng của nhiều loài thủy sản di cư từ phía thượng nguồn sông Mê Công. Những khu rừng ngập nước và đồng bằng ngập lũ cũng là những vùng có tiềm năng sản xuất cao. Có 3 hệ sinh thái tự nhiên chính ở đồng bằng sông Cửu Long, đó là hệ sinh thái ngập mặn ven biển; hệ sinh thái rừng tràm ở vùng ngập nước nội địa và hệ sinh thái cửa sông. Mỗi kiểu hệ sinh thái ĐNN đều có khu hệ sinh vật đặc trưng của mình. Tuy nhiên, đặc tính khu hệ sinh vật của các hệ sinh thái này còn phụ thuộc vào từng vùng cảnh quan và vùng địa lý tự nhiên. c) Hệ sinh thái biển: Việt Nam có đường bờ biển dài 3.260 km và vùng đặc quyền kinh tế rộng trên 1 triệu km2 với nguồn tài nguyên sinh vật biển khá phong phú. Trong vùng biển nước ta đã phát hiện được chừng 11.000 loài sinh vật cư trú trong hơn 20 kiểu hệ sinh thái điển hình, thuộc 6 vùng ĐDSH biển khác nhau. d) Đặc trưng của đa dạng hệ sinh thái ở Việt Nam: Tính phong phú và đa dạng của các kiểu hệ sinh thái: Với một diện tích không rộng, nhưng trên lãnh thổ Việt Nam có rất nhiều kiểu hệ sinh thái khác nhau. Ở từng vùng địa lý không lớn cũng tồn tại nhiều kiểu hệ sinh thái. Thành phần các quần xã trong các hệ sinh thái rất giàu. Cấu trúc quần xã trong các hệ sinh thái phức tạp, nhiều tầng bậc, nhiều nhánh. Điểm đặc trưng này làm cho đa dạng hệ sinh thái ở Việt Nam có nhiều điểm khác biệt so với các nước khác trên thế giới. Tính phong phú của các mối quan hệ giữa các yếu tố vật lý và các yếu tố sinh học, giữa các nhóm sinh vật với nhau, giữa các loài, giữa các quần thể trong cùng một loài sinh vật. Mạng lưới dinh dưỡng, các chuỗi dinh dưỡng với nhiều khâu nối tiếp nhau làm tăng tính bền vững của các hệ sinh thái. Các mối quan hệ năng lượng được thực hiện song song với các mối quan hệ vật chất rất phong phú, nhiều tầng, bậc thông qua các nhóm sinh vật: tự dưỡng (sinh vật sản xuất), dị dưỡng (sinh vật tięu thụ), hoại sinh (sinh vật phân hủy) trong các hệ sinh thái ở Việt Nam là những chuỗi quan hệ mà ở nhiều nước khác trên thế giới không có được. Các hệ sinh thái ở Việt Nam có đặc trưng tính mềm dẻo sinh thái cao, thể hiện ở sức chịu tải cao; khả năng tự tái tạo lớn; khả năng trung hòa và hạn chế các tác động có hại; khả năng tự khắc phục những tổn thương; khả năng tiếp nhận, chuyển hóa, đồng hóa các tác động từ bên ngoài. Các hệ sinh thái ở Việt Nam phần lớn là những hệ sinh thái nhạy cảm. Tính mềm dẻo sinh thái của các hệ sinh thái ở Việt Nam làm cho các hệ đó luôn ở trong trạng thái hoạt động mạnh, vě vậy, thường rất nhạy cảm với các tác động từ bęn ngoài, kể cả các tác động của thiên nhiên, cũng như những tác động của con người. 2: ĐA DẠNG LOÀI Ở VIỆT NAM: Tập hợp các dẫn liệu nghiên cứu, điều tra cơ bản đã có từ trước đến nay, thành phần loài thực vật, động vật ở Việt Nam được thống kê thì nhóm sinh vật vi tảo ở vùng nước ngọt được xác định là 1.438 loài chiếm 9,6% so với thế giới (số loài có trên thế giới là 15.000); thực vật bậc cao có khoảng 11.400 loài chiếm 5% so với thế giới (số loài có trên thế giới là 220.000); bò sát có 296 loài chiếm 4,7% so với thế giới (số loài có trên thế giới là 6.300)... Theo các tài liệu thống kê, Việt Nam là một trong 25 nước có mức độ ĐDSH cao trên thế giới với dự tính có thể có tới 20.000-30.000 loài thực vật. Việt Nam được xếp thứ 16 về mức độ ĐDSH (chiếm 6,5% số loài có trên thế giới). a) Đa dạng loài trong hệ sinh thái trên cạn: Khu hệ thực vật: Tổng kết các công bố về hệ thực vật Việt Nam, đă ghi nhận có 15.986 loài thực vật ở Việt Nam. Trong đó, có 4.528 loài thực vật bậc thấp và 11.458 loài thực vật bậc cao. Trong số đó có 10 % số loài thực vật là đặc hữu. Khu hệ động vật: cho đến nay đã thống kê được 307 loài giun tròn, 161 loài giun sán ký sinh ở gia súc, 200 loài giun đất, 145 loài ve giáp, 113 loài bọ nhảy, 7.750 loài côn trùng, 260 loài bò sát, 120 loài ếch nhái, 840 loài chim, 310 loài và phân loài thú. Trong hệ thống các khu bảo vệ vùng Đông Dương - Mã Lai của IUCN, Việt Nam được xem là nơi giàu về thành phần loài và có mức độ đặc hữu cao so với các nước trong vùng phụ Đông Dương. Động vật giới Việt Nam có nhiều dạng đặc hữu: hơn 100 loài và phân loài chim, 78 loài và phân loài thú đặc hữu. Riêng trong số 25 loài thú linh trưởng đã được ghi nhận thì ở Việt Nam có tới 16 loài, trong đó có 4 loài và phân loài đặc hữu của Việt Nam, 3 phân loài chỉ phân bố ở Việt Nam và Lào, 2 phân loài chỉ có ở vùng rừng hai nước Việt Nam - Cămpuchia. b) Đa dạng loài trong hệ sinh thái đất ngập nước nội địa: Các thủy vực nước ngọt nội địa Việt Nam rất đa dạng về hệ thực vật cũng như hệ động vật, bao gồm các nhóm vi tảo, rong, các loài cây cỏ ngập nước và bán ngập nước, động vật không xương sống và cá. Vi tảo: đã xác định được có 1.438 loài tảo thuộc 259 chi và 9 ngành. Cho đến nay đã thống kê và xác định được 794 loài động vật không xương sống. Trong đó, đáng lưu ý là trong thành phần loài giáp xác nhỏ, có 54 loài và 8 giống lần đầu tiên được mô tả ở Việt Nam. Riêng hai nhóm tôm, cua (giáp xác lớn) có 59 loài thì có tới 7 giống và 33 loài (55,9% tổng số loài) lần đầu tiên được mô tả. Trong tổng số 147 loài trai ốc, có 43 loài (29,2% tổng số loài), 3 giống lần đầu tiên được mô tả, tất cả đều là những loài đặc hữu của Việt Nam hay vùng Đông Dương. Điều đó cho thấy sự đa dạng và mức độ đặc hữu của khu hệ tôm, cua, trai, ốc nước ngọt nội địa Việt Nam là rất lớn. Theo các dẫn liệu thống kê, thành phần loài cá các thủy vực nước ngọt nội địa Việt Nam bao gồm trên 700 loài và phân loài, thuộc 228 giống, 57 họ và 18 bộ. Riêng họ cá chép có 276 loài và phân loài thuộc 100 giống và 4 họ, 1 phân họ được coi là đặc hữu ở Việt Nam. Phần lớn các loài đặc hữu đều có phân bố ở các thủy vực sông, suối, vùng núi. Đa dạng loài trong các hệ sinh thái biển và ven bờ. Đặc tính của khu hệ sinh vật biển Việt Nam thể hiện rő ở đặc tính nhiệt đới, đặc tính hỗn hợp, đặc tính ít đặc hữu và đặc tính khác biệt bắc - nam. Trong vùng biển nước ta đã phát hiện được chừng 11.000 loài sinh vật cư trú trong hơn 20 kiểu hệ sinh thái điển hình và thuộc 6 vùng đa dạng sinh học biển khác nhau, trong đó có hai vùng biển: Móng Cái - Đồ Sơn, Hải Vân - Vũng Tàu có mức độ đa dạng sinh học cao hơn các vùng còn lại. Đặc biệt, tại vùng thềm lục địa có 9 vùng nước trồi có năng suất sinh học rất cao, kèm theo là các bãi cá lớn. Tổng số loài sinh vật biển đã biết ở Việt Nam có khoảng 11.000 loài, trong đó cá (khoảng 130 loài kinh tế) có 2.458 loài; rong biển có 653 loài; động vật phù du có 657 loài; thực vật phù du có 537 loài; thực vật ngập mặn có 94 loài; tôm biển có 225 loài... Các nghiên cứu về biến động nguồn lợi đã cho thấy danh sách khu hệ cá biển của Việt Nam đến tháng 1/2005 là 2.458 loài, tăng 420 loài so với danh sách được lập năm 1985 (có 2.038 loài) và đã phát hiện thêm 7 loài thú biển mới. Một số loài sinh vật mới được phát hiện trong thời gian gần đây ở Việt Nam: Trong khoảng 10 năm trở lại đây, từ các kết quả điều tra cơ bản các vùng lãnh thổ khác nhau ở Việt Nam, một số loài mới được phát hiện và mô tả, trong đó nhiều chi, loài mới cho khoa học. Một số các nhóm sinh vật trước đây chưa được nghiên cứu, nay đã có những dẫn liệu bước đầu như nhóm giáp xác bơi nghiêng ở biển, dơi, kiến, ốc ở cạn... Một số kết quả điều tra cơ bản gần đây về các loài quý hiếm cũng cho thấy quần thể loài Rái cá lông mũi - loài tưởng đã tuyệt chủng, nay lại thấy ở khu bảo tồn U Minh thượng (Kiên Giang). Các loài mới được phát hiện đã làm phong phú thêm cho sinh giới của Việt Nam, trong khi một số loài khác, đặc biệt các loài có giá trị kinh tế đã biết lại có xu hướng giảm số lượng hoặc có nguy cơ tuyệt chủng. Đặc trưng đa dạng loài ở Việt Nam: Số lượng các loài sinh vật nhiều, sinh khối lớn. Tính ra bình quân trên 1 km2 lãnh thổ Việt Nam có 4,5 loài thực vật, gần 7 loài động vật, với mật độ hàng chục nghìn cá thể. Đây là một trong những mật độ đậm đặc các loài sinh vật so với thế giới. Cấu trúc loài rất đa dạng. Do đặc điểm địa hěnh, do phân hóa các kiểu khí hậu, cấu trúc các quần thể trong nội bộ loài thường rất phức tạp. Có nhiều loài có hàng chục dạng sống khác nhau. Khả năng thích nghi của loài cao. Thích nghi của các loài được thực hiện thông qua các đặc điểm thích nghi của từng cá thể, thông qua chuyển đổi cấu trúc loài. Loài sinh vật ở Việt Nam nói chung có đặc tính chống chịu cao đối với các thay đổi của các yếu tố và điều kiện ngoại cảnh. B: GIẢI PHÁP ĐA DẠNG SINH HỌC Ở VIỆT NAM: VN là một trong những quốc gia có tính đa dạng sinh học cao nhất trên thế giới, vì vậy cần phải có những cách tiếp cận và đầu tư sáng tạo để bảo vệ và sử dụng một cách bền vững những tài sản tự nhiên quý giá. Báo cáo năm nay đánh giá trung thực hiện trạng và xu hướng của đa dạng sinh học, làm nổi bật những vấn đề quan trọng, xác định những kinh nghiệm và bài học giúp các nhà hoạch định chính sách đưa ra các hành động ưu tiên trong thời gian tới nhằm cải thiện công tác quản lý các hệ sinh thái, các loài và các nguồn gen của Việt Nam. Các báo cáo trước tập trung phân tích các điều kiện môi trường nói chung (2002), tài nguyên nước (2003) và chất thải rắn (2004). Báo cáo nêu rõ để giải quyết những thách thức đang gặp phải trong bảo tồn đa dạng sinh học, Việt Nam cần thực hiện đồng bộ những giải pháp như cải thiện hệ thống khu bảo tồn và hiệu quả quản lý của hệ thống này; tăng cường quyền và năng lực của các cộng đồng để quản lý tài nguyên thiên nhiên, cải thiện việc lồng ghép các biện pháp bảo vệ đa dạng sinh học vào khu vực phát triển kinh tế; nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật, đặc biệt trong kiểm soát buôn bán phi pháp động vật hoang dã; và tăng cường quản lý hiệu quả việc cung cấp tài chính cho việc bảo tồn. 1: NHỮNG KHUYẾN NGHỊ VỀ CHÍNH SÁCH CHƯƠNG TRÌNH BẢO TỒN ĐA DẠNG SINH HỌC: Đã có những cuộc họp đàm luận giữa các đại diện của các cấp Nhà nước, những nhà chuyên môn, khoa học quốc tế và trong nước, các nhà lập kế hoạch, các nhà quản lý, dân địa phương, những người sử dụng tài nguyên trong quá trình lập kế hoạch này. Dựa trên những thông tin tư vấn này, những hành động được khuyến nghị cho rất nhiều tổ chức bao gồm Uỷ ban kế hoạch Nhà nước. Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, Bộ Y tế và Bộ Giáo dục và đào tạo những bước đầu tiên quan trọng. Công tác bảo vệ tính đa dạng sinh học hữu hiệu cũng đòi hỏi những thay đổi và phân cấp trách nhiệm của các tổ chức có liên quan đến môi trường ở Việt Nam. BAP khuyến nghị rằng việc nghiên cứu toàn diện về trách nhiệm tổ chức có thể tiến hành để nâng cao sự phối hợp liên ngành và mối quan hệ gắn bó giữa các cấp trung ương, tỉnh và huyện. BAP đề xuất rằng những văn bản luật môi trường cần phải được tăng cường, bao gồm các văn bản dưới luật và việc đơn giản hoá các quy chế, xây dựng thủ tục và hướng dẫn đánh giá tình hình môi trường, làm cho những cơ quan thi hành luật và quần chúng hiểu rõ hơn về các quy định về môi trường, nêu lên nhiều vấn đề về môi trường và xã hội, tăng cường tổ chức và cải thiện lương cho các cán bộ thi hành luật. Cũng phải có những đóng góp của Chính phủ khuyến khích quần chúng tham gia trực tiếp và bảo tồn rừng và bảo vệ môi trường tại mọi cấp. Những biện pháp này phải tạo điều kiện cho khả năng tự cải thiện cách thức, xây dựng những khuyến khích về kinh tế đối với những người tiên phong trong lĩnh vực môi trường, và cơ hội để quản lý và sử dụng bền vững tài sản đa dạng sinh học quốc gia. 2: NHỮNG THAY ĐỔI ĐƯỢC KHUYẾN NGHỊ VỀ QUẢN LÝ SINH CẢNH THIÊN NHIÊN: Việc quản lý các khu rừng đặc dụng phải được tăng cường thông qua những phương thức quản lý mới, đào tạo cán bộ, và sự tham gia ngày càng tăng của cộng động địa phương vào quản lý rừng đặc dụng. Việc sử dụng những kỹ thuật thống nhất đối với việc quản lý rừng đạc dụng, kể cả những vùng đệm và sinh thái cảnh quan đã bị sửa đổi, cũng được khuyến nghị. BAP cũng chỉ ra rằng ngày nay, những khu rừng đặc dụng ở Việt Nam đã được xây dựng mở rộng để bảo quản những hệ sinh thái rừng. Một hệ thống rừng đặc dụng để bảo vệ toàn bộ tính đa dạng sinh học ở Việt Nam cũng phải bao gồm đất ướt, các hệ thống vùng nước ven biển, và những sinh cảnh biển. 3: NHỮNG HÀNH ĐỘNG TOÀN ĐIỆN CHO CÔNG TÁC BẢO TỒN TÍNH ĐA DẠNG SINH HỌC: Phương pháp kỹ thuật mới nhất để bảo tồn tính đa dạng sinh học là việc sử dụng công nghệ khoa học và những phương pháp ngoại vi để bảo quản những thông tin về gen của tính đa dạng sinh học. Những phương pháp này bao gồm việc xây dựng những ngân hàng gen, đặc biệt để bảo quản những đa dạng sinh học trong nông nghiệp, vườn thú và bách thảo, kiểm soát kinh doanh các loài hoang dại, ngăn chặn cháy rừng, kiểm soát ô nhiễm và tái tạo tự nhiên những sinh cảnh thiên nhiên. 4: NHỮNG HÀNH ĐỘNG ĐƯỢC ĐÈ XUẤT: Những hành động được khuyến nghị trong BAP thể hiện trong các đề cương dự án cụ thể thông qua những biện pháp về chính sách, quản lý rừng, và những hoạt động toàn diện được vạch ra trong ba chương trình của BAP về chính sách và chương trình về đa dạng sinh học, những thay đổi được đề xuất trong việc quản lý những sinh cảnh thiên nhiên, và những hành động toàn diện để bảo tồn đa dạng sinh học. Những hoạt động được đề xuất không có nghĩa là tổng hợp và chỉ có thể thấy từng phần nào được yêu cầu để bảo tồn tính đa dạng sinh học được tối ưu. Những khái niệm dự án được xây dựng trên cơ sở những ý kiến đóng góp, và những sáng kiến hiện nay đang được Nhà nước và các tổ chức quốc tế tiến hành. II: CHÍNH SÁCH CỦA NHÀ NƯỚC VỀ BẢO TỒN ĐA DẠNG SINH HỌC: Vườn quốc gia đầu tiên được thành lập từ năm 1962 và rất nhiều bộ luật, quy tắc, quy chế, thông tư chỉ thị phản ánh rằng nhà nước đã, cam kết về bảo tồn đa dạng sinh học. Chính sách về đa dạng sinh học đã được xác định trong Chiến lược bảo tồn quốc gia (NCS) được xây dựng năm 1985 với các mục tiêu sau: Đáp ứng những nhu cầu cơ bản về văn hoá, tinh thần và vật chất của người dân Việt Nam (cả thế hệ hiện tại và tương lai) thông qua việc quản lý khôn ngoan các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Xác định và xây dựng các chính sách, kế hoạch, tổ chức và hành động, sao cho việc sử dụng ổn định các nguồn tài nguyên thiên nhiên hoàn toàn thống nhất với mọi phương diện phát triển kinh tế và xã hội của đất nước. Năm 1991, các nguyên tắc đề ra trong NCS đã được sàng lọc lại trong kế hoạch quốc gia về môi trường và phát triển lâu bền, kết hợp với các chính sách liên quan về kế hoạch tập trung và vấn đề chính các Bộ quan tâm. Chủ tịch Uỷ ban khoa học và kỹ thuật nhà nước được giao trách nhiệm thực hiện phối hợp kế hoạch này. Năm 1992, uỷ ban này đã được tổ chức lại thành Bộ Khoa Học, Công nghệ và môi trường (MOSTE). Năm 1993 cục môi trường quốc gia được thành lập là một trong những Cục Vụ của MOSTE . Danh mục sau tóm tắt những chính sách môi trường chính trên nhiều lĩnh vực: Chính sách Lâm nghiệp đã được xem xét lại trong quá trình thảo chương tình hành động lâm nghiệp nhiệt đới và đã được sửa đổi rất nhiều . Có một vài chỉ thị mới là kết quả của Nghị định 327 quan trọng của hội đồng Bộ trưởng đã nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác bảo vệ rừng, phục hồi đất trống để sản xuất có hiệu quả và canh tác trên đất dốc. Sự thay đổi lớn trong chính sách đã trở thành quyết định hướng dẫn người dân địa phương trong công tác quản lý và bảo vệ rừng. Có mục tiêu hoàn thành chương trình sau vào năm 2000: 6 triệu ha hệ thống rừng phòng hộ. Xây dựng hệ thống khu bảo tồn thiên nhiên (rừng đặc dụng) tổng diện tích lên tới 2 triệu ha. Các khu này sẽ được quy hoạch địa lý và nhấn mạnh công tác xây dựng vùng đệm để hỗ trợ cho người dân địa phương. Quan tâm đến việc tuyển mộ cán bộ từ người địa phương. 11 triệu ha rừng sản xuất bao gồm 5 ha rừng mới trồng. 40% diện tích đất nước có rừng che phủ. Việc sử dụng rừng phải bền vững và lâm nghiệp sẽ trở nên thống nhất hơn với nông nghiệp và ngư nghiệp. Người địa phương sẽ tham gia nhiều hơn. Chính sách giáo dục nhằm vào việc giới thiệu việc nghiên cứu môi trường ở mọi cấp đối với việc giáo dục chính thức và sinh học được động viên tham gia vào các chương trình trồng cây. Mục tiêu của chính sách dân số là giảm tốc độ gia tăng dân số xuống 1,8% vào năm 2000 và đạt được sự ổn định về dân số vào năm 2050. Mục tiêu của chính sách ngư nghiệp là xây dựng những phương thức ổn định tăng số lương cá và khai thác. Việc xây dựng các khu bảo vệ biển đang được xem xét để tăng cường bảo vệ các cửa sông và các hệ sinh thái ven biển, đặc biệt là các khu rừng ngập mặn và việc bảo vệ san hô. Sử dụng đất: Tất cả đất đai ở Việt Nam thuộc về nhà nước. Đất rừng và đất trống có thể cấp giấy phép giao cho cá nhân và cộng đồng bảo vệ, quản lý và sử dụng. Theo tinh thần nghị định 327 cho phép giao trọn đất rừng theo các giấy phép sử dụng đất dài hạn để khuyến khích đầu tư dài hạn vào khôi phục rừng và người dân địa phương được trực tiếp hưởng lợi trong ngành lâm nghiệp. Một số người dân địa phương sẽ ký hợp đồng quản lý rừng. Có những cố gắng cấm du canh. Một chương trình dài hạn về canh tác trên đất dốc đang được tiến hành nhưng đang được những tổ chức quốc tế quan tâm. Đất canh tác nông nghiệp có thể chuyển giao cho sử dụng dài hạn và điều này có thể là chuyển biến cho phép người nông dân tiến hành tự đầu tư và quyết định mô hình nuôi trồng thích hợp. Bằng cách này, nông dân có thể tiến hành nông lâm kết hợp và duy trì và loại hình truyền thống qua đó bảo vệ được tính đa dạng sinh học của các hệ sinh thái nông nghiệp địa phương. Sự lựa chọn ngược lại người dân tộc thiểu số bị cấm tuyệt đối và mỗi dân tộc có quyền sử dụng ngôn ngữ riêng và chữ viết (nếu họ có) của mình và tôn trọng truyền thống văn hoá và phong tục tập quán của riêng họ. Nhà nước nhằm mục đích phát triển đời sống tinh thần và vật chất của người dân tộc thiểu số. Ô nhiễm: Bộ khoa học, Công nghệ và Môi trường đang từng bước đưa ra một loạt các tiêu chuẩn công nghiệp để kiểm soát ô nhiễm cũng như các quy chế đánh giá tác động đến môi trường trong việc thực hiện các kế hoạch cơ bản. Các tổ chức phi chính phủ: Rất nhiều tổ chức phi chính phủ như Hiệp hội bảo vệ môi trường và thiên nhiên Việt Nam, Hội nông dân, Hội làm vườn, Đoàn thanh niên, v.v.. đang động viên mọi người tham gia vào trồng cây gây rừng xung quanh làng quê của họ. III: ĐỀ XUẤT VỀ NHỮNG CHÍNH SÁCH VÀ CHƯƠNG TRÌNH BẢO TỒN ĐA DẠNG SINH HOC: 1: TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC TỔ CHỨC TRONG CÔNG TÁC BẢO TỒN ĐA DẠNG SINH HỌC: Công tác bảo tồn đa dạng sinh học hữu hiệu sẽ đòi hỏi những thay đổi và xác định rõ trách nhiệm của tổ chức Nhà nước và phi chính phủ có tác động đến môi trường. Cần phải tiến hành việc nghiên cứu toàn diện về trách nhiệm của các tổ chức trước khi đề xuất có cải tiến về tổ chức, và đó cũng là một trong những dự án đề ra trong kế hoạch này (dự án P1). Trong khi thảo BAP, đã có những cuộc họp tổ chức để trao đổi giữa các đại diện của mọi cấp chính quyền, các nhà khoa học, hàn lâm trong nước và quốc tế, và các nhà lập kế hoạch và quản lý cùng với dân địa phương và những người sử dụng tài nguyên. Dựa trên những ý kiến đóng góp, những hành động sau được xác định là những bước đi đầu hướng về cải tiến tổ chức: Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước: Xác định trách nhiệm cho những chương trình đa dạng sinh học mới. Điều phối sự giúp đỡ của các nhà tài trợ cho lĩnh vực tài nguyên thiên nhiên. Giúp Cục Môi trường quốc gia trong việc điều hành công việc của mình. Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường: Chọn lựa một tổ chức có trách nhiệm hướng dẫn cộng đồng vùng đệm lập kế hoạch và thực hiện. Thành lập một đơn vị riêng điều phối các vấn đề về đa dạng sinh học. Hoạt động như một tổ chức khoa học cho công ước CITES, RAMSAR, và các công ước bảo tồn khác mà Việt Nam đã ký. Định kỳ xem xét lại và sửa đổi các văn bản pháp luật liên quan đến bảo vệ môi trường như Luật môi trường, Luật đánh giá đến tác động môi trường (EIA), kiểm soát kinh doanh trong các loài hoang dại và kiểm soát ô nhiễm. Thành lập một uỷ ban riêng giám sát bảo tồn ngoại vi ở Việt Nam bao gồm hiệp hội các vườn bách thú và hiệp hội các vườn bách thảo. Đẩy mạnh các chương trình toàn diện và rộng lớn nghiên cứu về các vấn đề thực tế bảo tồn đa dạng sinh học thông qua nhiều tổ chức khoa học trong cả nước. Xây dựng và điều phối một mạng lưới các trung tâm quản lý dữ liệu điều tra về tình trạng đa dạng sinh học của đất nước. Phát động một chiến dịch truyền thông quốc gia để nâng cao nhận thức chung cho dân chúng và cán bộ về tầm quan trọng của bảo vệ môi trường và ổn định dân số. Xem xét lại mức ô nhiễm, tiêu chuẩn xây dựng nhà máy và tiêu chuẩn về loại chất thải. Vấn đề quy chế kiểm soát phù hợp và quy mô điều tra ô nhiễm trong cả nước. Bộ Lâm nghiệp: Đáp ứng nhu cầu gỗ, nhiên liệu và các lâm sản khác trên cơ sở lâu bền. Phục hồi đất trống trong phạm vi lâm nghiệp để bảo vệ môi trường và sản lượng, lưu ý rằng trên diện tích đất này giá trị bảo vệ nguồn nước trong cả nước lớn hơn giá trị sản xuất gỗ rất nhiều. Xây dựng 6 triệu ha rừng phòng hộ và 2 triệu ha rừng đặc dụng. Chịu trách nhiệm sửa đổi định kỳ quy chế về các loài hoang dại bao gồm săn bắn, nuôi trồng và kinh doanh các loài hoang dại kể cả thuỷ sinh. Hoạt động như một cơ quan quản lý trong khuôn khổ CITES và các công ước quốc tế khác Việt Nam tham gia cho mục đích bảo tồn các loài hoang dại. Hợp tác chặt chẽ với cộng đồng khoa học trong việc đánh giá tình trạng bảo tồn các loài hoang dại, xác định các hoạt động ưu tiên cho bảo tồn và quyết định các kỹ thuật tiên tiến áp dụng trong khôi phục rừng, sử dụng lâu bền và quản lý các loài hoang dại Hợp tác chặt chẽ với các cộng đồng địa phương trong việc nâng cao sự tham gia của nhân dân vào những nhiệm vụ quan trọng về bảo vệ tài nguyên rừng quốc gia. Điều tra quy mô và hiện trạng tài nguyên rừng và các loại động vật hoang dại của đất nước. Bộ nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm: Bảo vệ các giống vật nuôi cây trồng, màu đặc sản và truyền thống. Bằng cách đó giúp bảo quản đa dạng văn hoá dân tộc. Bộ Y tế: Tăng cường chương trình kiểm soát sinh đẻ quốc gia với mục đích tăng nhanh tốc độ tiếp cận tỉ lệ phát triển dân số 0 vào thời gian sớm nhất. Tiến hành chương trình truyền thông cùng Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường để đạt được ổn định dân số và cân bằng với môi trường. Việc sửa đổi hệ thống rừng đặc dụ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docda_dang_sinh_hoc_o_viet_nam_0865.doc