Tính cấp thiết của đề tài
Nông nghiệp là ngành kinh tế có vị trí hết sức quan trọng đối với mỗi quốc gia. Ngành nông nghiệp cung cấp lương thực thực phẩm, cung cấp nguyên vật liệu cho các ngành công nghiệp, bảo vệ môi trường, duy trì các hệ sinh thái Ở Việt Nam, nghành nông nghiệp bao gồm nông nghiệp, lâm nghiệp, diêm nghiệp và thuỷ sản. Đối với ngành nông nghiệp nước ta nói chung và đối với ngành trồng trọt nói riêng thì trồng lúa là một lĩnh vực quan trọng hàng đầu. Cây lúa là cây lương thực đặc biệt quan trọng trên thế giới, với Việt Nam thì lúa còn được người dân coi là “ngọc thực”. Nhưng để làm ra được hạt thóc, người nông dân đã phải quanh năm vất vả, “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”, dầm mưa dãi nắng, không quản ngại khó khăn.
Nhằm làm giảm mức độ vất vả của người trồng lúa nói riêng cũng như người nông dân nói chung, Đảng và nhà nước ta đã và đang có những hướng đi, những chính sách thiết thực để áp dụng tiến bộ kỹ thuật, cơ giới hoá trong sản xuất nông nghiệp. Hội nghị lần thứ 7, Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn tiếp tục khẳng định và làm sâu sắc thêm nội dung về “Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại, công nghệ sinh học, thuỷ lợi hoá, cơ giới hoá, thông tin hoá, thay thế lao động thủ công, thay đổi tập quán canh tác lạc hậu để sử dụng có hiệu quả đất đai, tài nguyên, lao động, nâng cao năng suất chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nông sản”. Để từ đó thúc đẩy ngành nông nghiệp phát triển, đồng thời góp phần nâng cao đời sống cũng như chất lượng cuộc sống cho nông dân.
Gieo thẳng lúa bằng máy gieo rải hàng là một kỹ thuật tiến bộ trong sản xuất lúa ở nước ta. Cách làm này đã được áp dụng trên phạm vi nhiều tỉnh, nhiều địa phương và đã có kết quả rất khả quan. Vụ Xuân năm 2008, Trung tâm khuyến nông - khuyến ngư tỉnh Bắc Ninh sau khi tham khảo kinh nghiệm và kết quả trồng lúa ở nhiều địa phương đã áp dụng kỹ thuật này, bước đầu thử nghiệm mô hình trình diễn tại 3 huyện là Gia Bình, Quế Võ và Lương Tài. Các mô hình cho kết quả rất tốt. Do vậy, năm 2009 trung tâm đã tiếp tục triển khai nhân rộng mô hình gieo thẳng lúa bằng máy gieo rải hàng trên phạm vi toàn tỉnh.
Phương pháp gieo thóc mầm bằng dụng cụ sạ hàng thể hiện rất nhiều ưu điểm so với phương pháp cấy cổ truyền như giảm công cấy, giảm công làm cỏ, rút ngắn thời gian sinh trưởng của cây lúa, tăng năng suất đặc biệt là giải phóng sức lao động cho nông dân, nâng cao thu nhập và góp phần nâng cao đời sống cho nông dân. Để nắm rõ hơn hiệu quả của phương pháp này chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Hiệu quả kinh tế của mô hình gieo lúa bằng máy gieo rải hàng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh”.
78 trang |
Chia sẻ: lethao | Lượt xem: 3409 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá hiệu quả kinh tế của mô hình gieo lúa bằng máy gieo rải hàng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN I
MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Nông nghiệp là ngành kinh tế có vị trí hết sức quan trọng đối với mỗi quốc gia. Ngành nông nghiệp cung cấp lương thực thực phẩm, cung cấp nguyên vật liệu cho các ngành công nghiệp, bảo vệ môi trường, duy trì các hệ sinh thái… Ở Việt Nam, nghành nông nghiệp bao gồm nông nghiệp, lâm nghiệp, diêm nghiệp và thuỷ sản. Đối với ngành nông nghiệp nước ta nói chung và đối với ngành trồng trọt nói riêng thì trồng lúa là một lĩnh vực quan trọng hàng đầu. Cây lúa là cây lương thực đặc biệt quan trọng trên thế giới, với Việt Nam thì lúa còn được người dân coi là “ngọc thực”. Nhưng để làm ra được hạt thóc, người nông dân đã phải quanh năm vất vả, “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”, dầm mưa dãi nắng, không quản ngại khó khăn.
Nhằm làm giảm mức độ vất vả của người trồng lúa nói riêng cũng như người nông dân nói chung, Đảng và nhà nước ta đã và đang có những hướng đi, những chính sách thiết thực để áp dụng tiến bộ kỹ thuật, cơ giới hoá trong sản xuất nông nghiệp. Hội nghị lần thứ 7, Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn tiếp tục khẳng định và làm sâu sắc thêm nội dung về “Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại, công nghệ sinh học, thuỷ lợi hoá, cơ giới hoá, thông tin hoá, thay thế lao động thủ công, thay đổi tập quán canh tác lạc hậu để sử dụng có hiệu quả đất đai, tài nguyên, lao động, nâng cao năng suất chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nông sản”. Để từ đó thúc đẩy ngành nông nghiệp phát triển, đồng thời góp phần nâng cao đời sống cũng như chất lượng cuộc sống cho nông dân.
Gieo thẳng lúa bằng máy gieo rải hàng là một kỹ thuật tiến bộ trong sản xuất lúa ở nước ta. Cách làm này đã được áp dụng trên phạm vi nhiều tỉnh, nhiều địa phương và đã có kết quả rất khả quan. Vụ Xuân năm 2008, Trung tâm khuyến nông - khuyến ngư tỉnh Bắc Ninh sau khi tham khảo kinh nghiệm và kết quả trồng lúa ở nhiều địa phương đã áp dụng kỹ thuật này, bước đầu thử nghiệm mô hình trình diễn tại 3 huyện là Gia Bình, Quế Võ và Lương Tài. Các mô hình cho kết quả rất tốt. Do vậy, năm 2009 trung tâm đã tiếp tục triển khai nhân rộng mô hình gieo thẳng lúa bằng máy gieo rải hàng trên phạm vi toàn tỉnh.
Phương pháp gieo thóc mầm bằng dụng cụ sạ hàng thể hiện rất nhiều ưu điểm so với phương pháp cấy cổ truyền như giảm công cấy, giảm công làm cỏ, rút ngắn thời gian sinh trưởng của cây lúa, tăng năng suất…đặc biệt là giải phóng sức lao động cho nông dân, nâng cao thu nhập và góp phần nâng cao đời sống cho nông dân. Để nắm rõ hơn hiệu quả của phương pháp này chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Hiệu quả kinh tế của mô hình gieo lúa bằng máy gieo rải hàng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh”.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Phản ánh hiệu quả kinh tế của mô hình gieo thẳng lúa bằng máy gieo rải hàng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, từ đó đề xuất những giải pháp nhân rộng quy mô của mô hình, góp phần làm tăng hiệu quả kinh tế trồng lúa trên địa bàn tỉnh.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
+ Hệ thống hoá cơ sở lý luận về hiệu quả kinh tế trong quá trình sản xuất.
+ Phản ánh hiệu quả của việc áp dụng mô hình gieo thẳng lúa bằng máy gieo rải hàng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
+ Đề xuất một số khuyến nghị và giải pháp nhằm nhân rộng phạm vi áp dụng mô hình.
1.3 Đối tượng nghiên cứu
Hiệu quả kinh tế của mô hình gieo thẳng lúa bằng máy gieo rải hàng.
1.4 Phạm vi nghiên cứu
1.4.1 Phạm vi không gian
Đề tài tiến hành nghiên cứu trên phạm vi tỉnh Bắc Ninh.
1.4.3 Phạm vi thời gian
+ Số liệu thứ cấp: Thu thập số liệu trong các năm từ 2006 – 2008.
+ Số liệu sơ cấp: Thu thập số liệu trong năm 2008.PHẦN II CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
2.1 Cơ sở lý luận
2.1.1 Cơ sở lý luận về hiệu quả kinh tế
2.1.1.1 Khái niệm và quan điểm chung về hiệu quả kinh tế
Hiệu quả là một phạm trù kinh tế chung nhất liên quan trực tiếp với nền sản xuất hàng hoá. Hiệu quả được xem xét dưới nhiều giác độ và nhiều quan điểm khác nhau. Về Hiệu quả kinh tế (HQKT), có hai quan điểm: Truyền thống và quan điểm mới cùng tồn tại (21).
* Quan điểm truyền thống về hiệu quả kinh tế
Quan điểm truyền thống cho rằng, nói đến hiệu quả kinh tế tức là nói đến phần còn lại của kết quả sản xuất kinh doanh sau khi đã trừ chi phí. Nó được đo bằng các chi phí và lời lãi. Nhiều tác giả cho rằng, hiệu quả kinh tế được xem như là tỷ lệ giữa kết quả thu được với chi phí bỏ ra, hay ngược lại là chi phí trên một đơn vị sản phẩm hay giá trị sản phẩm. Những chỉ tiêu hiệu quả này thường là giá thành sản phẩm hay mức sinh lời của đồng vốn. Nó chỉ được tính toán khi kết thúc một quá trình sản xuất kinh doanh.
- HQKT được xác định bởi tỷ số giữa kết quả đạt được và các chi phí bỏ ra (các nguồn nhân lực, vật lực …) để đạt được kết quả đó.
HQKT = K/C (1)
Trong đó: K là kết quả sản xuất.
C là chi phí sản xuất
Đại diện cho hệ thống quan điểm này là Culicop, ông cho rằng: “Hiệu quả sản xuất là kết quả của một nền sản xuất nhất định, chúng ta sẽ so sánh kết quả với chi phí cần thiết để đạt được kết quả đó. Khi lấy tổng sản phẩm chia cho vốn sản xuất chúng ta được hiệu suất vốn, tổng sản phẩm chia cho vật tư được hiệu suất vật tư, tổng sản phẩm chia cho số lao động được hiệu suất lao động”(10).
Với cách tính này chỉ rõ được mức độ hiệu quả của sử dụng các nguồn lực sản xuất khác nhau, từ đó so sánh được HQKT của các quy mô sản xuất khác nhau. Nhược điểm của cách đánh giá này là không thể hiện được quy mô của HQKT nói chung. Ở Việt Nam một số tác giả như Trần Văn Đức (1993) cho rằng: “HQKT được xem xét trong mối tương quan giữa một bên là kết quả thu được và một bên là chi phí bỏ ra”(7).
- HQKT được đo bằng hiệu số giữa giá trị sản xuất đạt được và lượng chi phí đã bỏ ra để đạt được kết quả đó.
HQKT = K – C
Tác giả Đỗ Thịnh (1988) cũng cho rằng: “Thông thường hiệu quả đạt được biểu hiện như một hiệu số giữa kết quả và chi phí … Tuy nhiên trong thực tế có nhiều trường hợp không thực hiện được phép trừ, hoặc phép trừ không có ý nghĩa. Do vậy, nói một cách khác linh hoạt hơn nên hiểu hiệu quả là một kết quả tốt nhất phù hợp mong muốn”(6).
Các quan điểm truyền thống trên chưa thật toàn diện khi xem xét hiệu quả kinh tế.
Thứ nhất, nó coi quá trình sản xuất kinh doanh trong trạng thái tĩnh, chỉ xem xét hiệu quả sau khi đã đầu tư. Thứ hai, nó không tính yếu tố thời gian khi tính toán thu và chi cho một hoạt động sản xuất kinh doanh. Thứ ba, hiệu quả kinh tế theo quan điểm truyền thống chỉ bao gồm hai phạm trù cơ bản là thu và chi.
HQKT là một trong những thước đo phản ánh trình độ tổ chức quản lý sản xuất, mức độ sử dụng có hiệu quả tài nguyên khan hiếm vào mục đích sản xuất và phục vụ lợi ích con người, mặt khác HQKT còn phản ánh sự tồn tại và phát triển của xã hội nói chung và từng doanh nghiệp nói riêng. Với ý nghĩa đó, khi đánh giá kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của từng ngành, từng doanh nghiệp và từng thành phần kinh tế khác nhau không chỉ xem xét đánh giá một chiều về số lượng sản phẩm sản xuất ra mà còn phải đánh giá chất lượng của hoạt động sản xuất kinh doanh thông qua các chỉ tiêu HQKT.
* Quan điểm mới về hiệu quả kinh tế
Gần đây các nhà kinh tế đã đưa ra quan niệm mới về hiệu quả kinh tế, nhằm khắc phục những điểm thiếu của quan điểm truyền thống. Theo quan điểm mới khi tính hiệu quả kinh tế phải căn cứ vào tổ hợp các yếu tố:
- Trạng thái động của mối quan hệ giữa đầu vào và đầu ra.
Về mối quan hệ này, cần phân biệt rõ ba phạm trù: Hiệu quả kỹ thuật (Technical efficiency); hiệu quả phân bổ các nguồn lực (Allocative efficiency) và hiệu quả kinh tế (Economic efficiency).
+ Hiệu quả kỹ thuật: Là số lượng sản phẩm có thể đạt được trên một đơn vị chi phí đầu vào. Hiệu quả kỹ thuật được áp dụng phổ biến trong kinh tế vi mô để xem xét tình hình sử dụng nguồn lực cụ thể, nó chỉ ra rằng một đơn vị nguồn lực dùng vào sản xuất đem lại thêm bao nhiêu đơn vị sản phẩm.
+ Hiệu quả phân bổ: Là chỉ tiêu hiệu quả trong các yếu tố giá sản phẩm và giá đầu vào được tính để phản ánh giá trị sản phẩm thu thêm trên một đồng chi phí chi thêm về đầu vào hay nguồn lực.
+ Hiệu quả kinh tế: Là phạm trù kinh tế mà trong đó sản xuất đạt cả hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả phân bổ. Điều đó có nghĩa là cả hai yếu tố hiện vật và giá trị đều tính đến khi xem xét sự việc sử dụng các nguồn lực trong nông nghiệp.
- Yếu tố thời gian:
Các nhà kinh tế hiện nay đã coi thời gian là yếu tố trong tính toán hiệu quả. Cùng đầu tư một lượng vốn như nhau và cùng có tổng doanh thu bằng nhau nhưng hai dự án có thể có hiệu quả khác nhau do thời gian thu hồi vốn khác nhau.
- Hiệu quả tài chính, xã hội và môi trường:
Theo quan điểm toàn diện, hiệu quả kinh tế nên được đánh giá trên ba phương diện: Hiệu quả tài chính, xã hội và hiệu quả môi trường. Hiệu quả tài chính mà trước đây ta quen gọi là hiệu quả kinh tế thường được thể hiện bằng những chỉ tiêu như lợi nhuận, giá thành, tỷ lệ nội hoàn vốn, thời gian hoàn vốn.... Hiệu quả xã hội và môi trường thể hiện bằng những chỉ tiêu như việc làm, sự công bằng xã hội, sự tự lập của cộng đồng và sự được bảo vệ hoặc sự hoàn thiện hơn của môi trường sinh thái....
Nhìn chung, các quan điểm trên đều đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh theo tiêu chí chất lượng nhất định, nhưng hạn chế của những quan điểm trên đều chưa thể hiện được bản chất của nền kinh tế và bản chất xã hội, mà mới chỉ dừng lại xem xét trong phạm vi một doanh nghiệp, một đơn vị sản xuất kinh doanh mang tính chất trực tiếp, chưa gắn bó lợi ích của doanh nghiệp với lợi ích xã hội, chưa giải quyết tốt mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và xã hội.
Ở nước ta, phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hoạt động kinh tế của mỗi doanh nghiệp, mỗi cơ sở sản xuất không chỉ nhằm vào tăng hiệu quả và các lợi ích kinh tế của mình mà còn phải phù hợp với yêu cầu của xã hội và đảm bảo các lợi ích chung bởi các định hướng, chuẩn mực được Nhà nước thực hiện điều chỉnh. Như vậy khái niệm HQKT cần được bổ sung và mở rộng.
Từ những quan điểm trên, xuất phát từ lý luận thực tiễn có thể nói: “HQKT là phạm trù kinh tế xã hội phản ánh các hoạt động kinh tế trong một phương thức sản xuất nhất định, không những nó phản ánh mối quan hệ tỷ lệ giữa sự tăng trưởng của kết quả sản xuất với việc sử dụng hợp lý các nguồn lực của doanh nghiệp, của xã hội thông qua mức đầu tư chi phí mà còn mang lại lợi ích xã hội” .
2.1.1.2 Nội dung và bản chất hiệu quả kinh tế trong sản xuất kinh doanh
Với một lượng dự trữ tài nguyên nhất định muốn tạo ra được khối lượng sản phẩm lớn nhất là mục tiêu của các nhà sản xuất và quản lý. Nói cách khác là ở một mức sản xuất nhất định cần phải làm thế nào để có chi phí tài nguyên và lao động thấp nhất. Điều đó cho thấy quá trình sản xuất là sự liên hệ mật thiết giữa các yếu tố đầu vào và đầu ra, là sự biểu hiện kết quả của các mối quan hệ thể hiện tính hiệu quả của sản xuất.
Hoạt động sản xuất kinh doanh của từng ngành, từng doanh nghiệp được đánh giá thông qua một số chỉ tiêu có thể lượng hoá được nhưng bên cạnh đó còn những vấn đề không thể lượng hoá được mà chỉ đánh giá mang tính chất định tính như an sinh xã hội, vấn đề môi trường … Đánh giá đúng đắn HQKT của hoạt động sản xuất kinh doanh phải xuất phát từ nội dung và bản chất của nó, vấn đề này phụ thuộc vào bản chất chế độ chính trị xã hội mà trực tiếp tác động là quy luật kinh tế cơ bản.
Trong các nước tư bản phát triển, nền kinh tế thị trường chịu sự tác động mãnh liệt của quy luật giá trị thặng dư (quy luật kinh tế cơ bản). Sự chi phối này buộc các nhà sản xuất kinh doanh coi lợi nhuận tối đa là mục tiêu hàng đầu, là lẽ “sống còn” của doanh nghiệp.
Dưới chế độ chủ nghĩa xã hội, theo quan điểm của C.Mác thì bản chất HQKT của nền sản xuất xã hội là thực hiện yêu cầu của quy luật tiết kiệm thời gian trong khi sử dụng các nguồn lực xã hội.
Hai thập kỷ qua, nền kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu hoạt động sản xuất kinh doanh của các ngành, các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế không những thu được lợi nhuận tối đa mà phù hợp với những yêu cầu của xã hội theo những chuẩn mực mà Đảng và Nhà nước quy định, giải quyết đúng đắn mối quan hệ hữu cơ giữa lợi ích doanh nghiệp, người lao động, người tiêu dùng và xã hội. Đối với các hộ nông dân, tiến hành sản xuất trước hết là có việc làm, có thu nhập đảm bảo cuộc sống hàng ngày sau đó mới tính đến lợi nhuận và khả năng tích luỹ.
Để làm rõ hơn nội dung và bản chất HQKT, trong quá trình nghiên cứu cần phân biệt khái niệm về kết quả và hiệu quả sản xuất. Kết quả sản xuất là đại lượng vật chất phản ánh mặt quy mô, số lượng sản xuất trong điều kiện nhất định. Hiệu quả sản xuất là chỉ tiêu chất lượng dùng để xem xét kết quả đó được tạo ra như thế nào, nguồn chi phí bỏ ra bao nhiêu, lợi ích mức độ nào, độ thoả dụng ra sao để đạt được kết quả đó. HQKT là một phạm trù kinh tế - xã hội với những đặc trưng biểu hiện phức tạp nên việc xác định và so sánh HQKT cũng mang tính chất tương đối phù hợp với điều kiện sản xuất xã hội nhất định.
Trong sản xuất nông nghiệp nói chung và trồng lúa nói riêng, HQKT cũng bị chi phối bởi các yếu tố sau:
- Chất lượng giống cây trồng.
- Thị trường đầu vào, đầu ra.
- Điều kiện tự nhiên như đất, nước
- Phương pháp và kỹ thuật gieo trồng.
- Khí hậu.
- Mùa vụ gieo trồng.
2.1.1.3 Phương pháp xác định hiệu quả kinh tế của mô hình sản xuất nông nghiệp
* Xác định HQKT của các mô hình sản xuất nông nghiệp
Theo TS. Phạm Xuân Giang trường Học viện quản lý phát triển thành phố Hồ Chí Minh – DMI thì để đánh giá HQKT của các mô hình phải sử dụng một hệ thống chỉ tiêu và phải so sánh lần lượt từng chỉ tiêu của các mô hình với nhau. Điều đó chắc chắn dẫn đến việc là mô hình này có chỉ tiêu tốt hơn lại có chỉ tiêu xấu hơn mô hình kia. Và như vậy, sẽ không có căn cứ để cho rằng mô hình nào là tốt hơn.
Bảng 2.1 : Ví dụ 1
Mô hình
Công LĐ/ha
CP vật chất/ha (tr. đ)
Lãi/ha
(tr.đ)
Tỷ suất
LN/Vốn (%)
1. 3 vụ lúa
410
15,04
29,96
60,8
2. 2 lúa + 1 cá
380
16,70
30,66
68,1
3. 2 lúa + 1 vụ dưa
450
25,03
28,97
73,5
4. 2 lúa + 2 rau
500
29,50
38,60
72,9
Mô hình tối ưu
380 (2)
15,04(1)
38,60 (4)
73,5 (3)
Với kết quả ở bảng trên, rất khó để cho rằng: mô hình nào từ 4 mô hình trên là có hiệu quả nhất. Nếu căn cứ vào chỉ tiêu thứ nhất thì mô hình 2 là có hiệu quả nhất; căn cứ vào chỉ tiêu thứ hai thì mô hình 1; căn cứ vào chỉ tiêu thứ ba thì mô hình 4; còn nếu căn cứ vào chỉ tiêu thứ tư thì mô hình 3 lại là mô hình có hiệu quả nhất. Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận/vốn là một chỉ tiêu cơ bản để đánh giá HQKT, nhưng nó vẫn chưa phải là một chỉ tiêu toàn diện.
* Đánh giá HQKT của các mô hình sản xuất nông nghiệp bằng cách tính chỉ tiêu hiệu quả tổng hợp
HQKT của các tiến bộ kỹ thuật, các phương án sản xuất hoặc các mô hình kinh tế (gọi tắt là các mô hình) … được biểu hiện bằng nhiều chỉ tiêu. Các chỉ tiêu này chịu tác động của những nhân tố khác nhau và với những cường lực không giống nhau. Thậm chí cùng một loại nhân tố nhưng thời kỳ này tác động mạnh, thời kỳ khác lại có thể yếu hơn. Mặt khác, có loại chỉ tiêu trị số càng lớn càng tốt (được gọi là chỉ tiêu thuận), lại có chỉ tiêu trị số càng nhỏ càng tốt (được gọi là chỉ tiêu nghịch). Trong đánh giá HQKT không thể sử dụng một chỉ tiêu mà phải sử dụng một hệ thống chỉ tiêu. Các chỉ tiêu này lại không trực tiếp cộng lại được với nhau và mỗi chỉ tiêu biểu hiện HQKT ở một khía cạnh riêng biệt, do đó cũng không thể sử dụng một chỉ tiêu làm đại diện để so sánh. Bởi vậy, người ta đã đưa ra cách tính chỉ tiêu hiệu quả tổng hợp. Chỉ tiêu này có tác dụng tổng hợp được các chỉ tiêu bộ phận để biểu hiện thành một chỉ tiêu chung nhất phản ánh HQKT của từng mô hình. Cách tính được tiến hành qua bốn bước (20):
- Bước 1: Tính các chỉ tiêu bộ phận phản ánh HQKT của từng mô hình.
- Bước 2: Chọn ra các chỉ tiêu HQKT tốt nhất từ những mô hình nói trên và mô hình lý tưởng bao gồm những chỉ tiêu này được coi là mô hình tối ưu.
- Bước 3: Tính chỉ tiêu hiệu quả thành phần bằng cách lấy trị số của các chỉ tiêu thuận chia cho trị số của chỉ tiêu tương ứng trong mô hình tối ưu. Các chỉ tiêu nghịch thì làm ngược lại, tức là lấy trị số của chỉ tiêu nghịch trong mô hình tối ưu chia lần lượt cho trị số của chỉ tiêu tương ứng trong các mô hình cụ thể. Kết quả tính ra đều có kết quả nhỏ hơn hoặc bằng 1.
- Bước 4: Tính chỉ tiêu hiệu quả tổng hợp bằng cách cộng trị số của các chỉ tiêu hiệu quả thành phần. Mô hình nào có chỉ tiêu hiệu quả tổng hợp lớn nhất chứng tỏ HQKT của mô hình đó là cao nhất và ngược lại.
Chúng ta có thể ứng dụng cách tính chỉ tiêu hiệu quả tổng hợp vào thí dụ trên và kết quả được thể hiện trong bảng sau:
Bảng 2.2: Ví dụ 2
Mô hình
Công lao động
Chi phí
Vật chất
Lãi
Tỷ suất
LN/vốn
Chỉ tiêu hiệu quả tổng hợp
1. 3 vụ lúa
0,93
1,00
0,78
0,83
3,54
2. 2 lúa + 1 cá
1,00
0,90
0,79
0,93
3,62
3. 2 lúa + 1 vụ dưa
0,84
0,60
0,75
1,00
3,19
4. 2 lúa + 2 rau
0,76
0,51
1,00
0,99
3,26
Mô hình tối ưu
1,00
1,00
1,00
1,00
4,00
Các số liệu của cột cuối cùng trong bảng trên cho thấy: Mô hình 2 có hiệu quả nhất, sau đó là mô hình 1, rồi đến mô hình 4 và cuối cùng là mô hình 3. Như vậy phương pháp này đã quy đổi được các chỉ tiêu hiệu quả bộ phận thành một chỉ tiêu chung, qua đó tạo sự dễ dàng cho việc đánh giá hiệu quả của các mô hình sản xuất nông nghiệp.
* Đánh giá HQKTcủa các mô hình sản xuất nông nghiệp trong điều kiện các nguồn lực (đầu vào) bị hạn chế
Theo chúng tôi, sử dụng chỉ tiêu hiệu quả tổng hợp để đánh giá HQKT của các mô hình đã được trình bày trên đây chỉ có ý nghĩa trong điều kiện có đủ các nguồn lực, như: vốn, lao động , vật tư… Tuy vậy, trong sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất nông nghiệp trong các hộ nói riêng, một số yếu tố đầu vào thường bị giới hạn. Mức độ giới hạn phụ thuộc trực tiếp vào nguồn lực sẵn có trong hộ và sự gúp đỡ của các tổ chức kinh tế - xã hội, như: ngân hàng, HTX, chính quyền… Có thể nói yếu tố nguồn lực thiếu thốn nhất đối với sản xuất của các hộ nông dân trước hết là vốn bằng tiền, sau đó là lao động … Thực ra, lao động nông nghiệp ở nước ta không thiếu, thậm chí là dư thừa. Nhưng thời gian gần đây, do quá trình đô thị hoá nhanh, nên một bộ phận lao động nông nghiệp đã chuyển hẳn sang làm công nghiệp và dịch vụ. Kết quả là lao động trong khu vực nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ngoại thành thiếu lao động trầm trọng. Sự thiếu thốn nguồn lực dẫn đến việc là cho dù một mô hình nào đó có lãi cao, doanh thu lớn… thì người dân cũng không thể áp dụng được. Bởi vì những mô hình có lãi cao, doanh thu lớn … cũng thường là những mô hình đòi hỏi đầu tư nguồn lưc lớn. Trong điều kiện đó người dân không thể căn cứ vào chỉ tiêu hiệu quả tổng hợp hoặc chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận/vốn . . . để chọn mô hình áp dụng. Ngược lại, họ phải chọn mô hình nào mà đòi hỏi ít nguồn lực nhất (mà họ đang thiếu) để thực hiện. Nói khác đi là họ phải căn cứ vào một trong các chỉ tiêu nghịch để chọn mô hình sản xuất cho mình. Chẳng hạn theo thí dụ trên, nếu thiếu lao động trực tiếp thì nên chọn mô hình 2 (là mô hình cần ít công lao động nhất); nếu thiếu vốn thì chọn mô hình 1 (là mô hình có chi phí thấp nhất). . .
Tóm lại: “Đánh giá HQKT của các mô hình sản xuất nông nghiệp trong điều kiện còn nghèo của nước ta phải xuất phát từ yếu tố nguồn lực. Nghĩa là nếu có đủ nguồn lực thì đánh giá bằng chỉ tiêu hiệu quả tổng hợp, còn nếu nguồn lực bị hạn chế thì chọn chỉ tiêu nào mà sử dụng nguồn lực hạn chế nhất để đánh giá”.
2.1.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến HQKT sản xuất lúa
Một số nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả kinh tế của trồng lúa gồm: Giống, phân bón, nước và khí hậu. Đây là những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới năng suất và chất lượng lúa. Trong trồng lúa, để đem lại năng suất cao, chất lượng lúa tốt cần phải có sự kết hợp đồng thời tất cả các nhân tố. Giống tốt phù hợp với điều kiện đầu tư của hộ, bón phân đảm bảo đủ nhu cầu của cây theo từng giai đoạn và cung cấp nước đầy đủ cho cây trong từng giai đoạn. Đối với khí hậu là một yếu tố con người hầu như không thể tác động, nó tuân theo quy lụât của tự nhiên.
2.2 Cơ sở thực tiễn
2.2.1 Tình hình áp dụng mô hình trên thế giới
Hiện nay trên thế giới có khoảng trên 100 quốc gia sản xuất lúa. Mỗi quốc gia có đặc điểm: khí hậu, thời tiết, hệ thống thuỷ lợi, số vụ trong năm là khác nhau nên có những phương pháp gieo trồng khác nhau. Trên thế giới, tuỳ theo điều kiện và tập quán, cây lúa thường được canh tác theo hai phương thức chủ yếu là lúa cấy và lúa gieo thẳng (gieo sạ).
Ở Liên Xô cũ bao gồm các nước Kazaxtan, Uzerbekixtan, Azecbaijan. Lúa được gieo trồng chủ yếu là gieo sạ bao gồm sạ hàng và sạ vãi đều có máy lấp hạt. Phương pháp vãi chỉ áp dụng tại những nơi không gieo được hàng do địa hình, chế độ nước không thuận lợi. Phương pháp gieo hàng được áp dụng rất phổ biến trong sản xuất lúa ở Liên Xô là gieo hàng bằng máy gieo ở đất đã cầy bừa và chuẩn bị kỹ. Gieo hàng như vậy, nhẹ nhàng cơ giới, ít tốn công, dễ kiểm tra lượng hạt giống, gieo đều hạt, (Đoàn Doãn Hùng, 1979).
Ở Mỹ, các khâu trong sản xuất lúa đều được cở giới hoá gần như toàn bộ từ làm đất, gieo cấy, chăm sóc, thu hoạch. Việc gieo lúa tại Mỹ chủ yếu được thực hiện bằng máy bay gắn liền với làm đất trong điều kiện ngập nước hoặc kết hợp với các máy gieo hàng liên hợp theo sau máy kéo và được thực hiện đồng thời với việc rải phân, (A.T. Sađrin, 1985).
Các nước Châu Á như Thái Lan, Philippin, Trung Quốc … thì lúa cấy là chủ yếu. Việc áp dụng gieo thẳng lúa bằng máy gieo sạ thủ công như Việt Nam đang là một kỹ thuật mới trong sản xuất lúa, đặc biệt có ý nghĩa với các nước trong khu vực và các nước có điều kiện tương tự Việt Nam.
2.2.2. Tình hình áp dụng mô hình tại Việt Nam
Gieo sạ lúa đã được áp dụng ở Nước ta từ rất nhiều năm trước và phổ biến nhất tại Nam Bộ. Ở đồng bằng sông Cửu Long hiện có khoảng 4 triệu ha gieo trồng lúa, thì có khoảng 3,5 triệu ha là lúa gieo sạ (Nguyễn Văn Luật, 1995). Ở Đồng bằng sông Hồng đã từng phát triển rất mạnh phong trào gieo sạ lúa trong những thập niên 70, diện tích sạ vãi là rất nhiều nhưng sau đó lại giảm và chỉ còn duy trì được tại một số địa phương của Thái Bình có hệ thống thuỷ lợi tốt.
Phương pháp gieo thẳng lúa đã được áp dụng ở miền Bắc ngay từ hồi kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, do cố GS.Bùi Huy Đáp và cộng sự hướng dẫn nông dân làm ở vùng trung du với giống lúa bản địa ngắn ngày như Ba Giăng, Lúa Lốc …; giống nhập nội từ Nam Ninh – Trung Quốc như Trà trung tử …; giống do cố AHLĐ Lương Định Của chọn tạo như Nông nghiệp 1, Sớm cu …
Vào giữa thập kỷ 60 của thế kỷ 20 các cán bộ của trường đại học Nông nghiệp Hà Nội đã về xã Hưng Đạo tỉnh Hải Dương hướng dẫn bà con sạ lúa theo hàng với máy sạ 2 hàng làm bằng gỗ và cật tre bởi AHLĐ, cố PGS.Phan Hồng Diêu chế tạo.
Năm 1990 GS.TS Nguyễn Văn Luật đã mang mẫu dụng cụ sạ hàng của viện Lúa Quốc tế (IRRI) về nghiên cứu áp dụng. Mẫu này làm bằng sắt, có 2 bánh trượt, rất khó áp dụng. TS. Lê Văn Bảnh, đã cùng cộng sự thay bàn trượt bằng bánh lồng mới đưa vào sản xuất được. Tỉnh Trà Vinh tiếp thu vào sản xuất đại trà đầu tiên, từ 1998. Nông trường Sông Hậu ngày đó cũng áp dụng gần 100% diện tích - 6.000 ha. Rồi Doanh nghiệp cơ khí Hoàng Thắng, đúc mẫu máy bằng nhựa với đủ kích cỡ như bà con miền Bắc mới dùng vài kiểu. Lãnh đạo địa phương quyết tâm hơn trong việc đưa vào sản xuất máy sạ hàng. Nhiều địa phương cấp máy sạ cho nông dân miễn phí cả, hoặc 1 phần. Sau 10 năm, mới được trên 20% diện tích, bằng gần 1 triệu ha gieo trồng/năm. Các nước trong khu vực đã đến hội thảo thăm đồng và mua mẫu máy của ta, kể cả Philippine.
Từ kết quả mô hình của Hà Tây (cũ), đến nay đã trên 20 tỉnh trong cả nước áp dụng kỹ thuật này với diện tích hàng ngàn héc-ta. Năm 2008, Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn đã mở 2 hội nghị, tháng 4 - 2008 tại Ba Vì và tháng 6 - 2008 tại Hải Dương, khẳng định đây là tiến bộ kỹ thuật mới, là giải pháp đột phá trong sản xuất nông nghiệp để áp dụng cho Đồng bằng sông Hồng.
Vụ Xuân năm 2008 tuy diện tích gieo cấy lúa toàn vùng giảm nhưng diện tích lúa gieo thẳng tăng, diện tích tăng chủ yếu ở các tỉnh Đồng bằng Sông Hồng (10 ngàn ha).
Bảng 2.3: Diện tích lúa gieo thẳng vụ Xuân năm 2008 của miền Bắc
Vùng
Diện tích gieo cấy
(ha)
Diện tích gieo thẳng
(ha)
Tỷ lệ
(%)
Đồng bằng Sông Hồng
546.100
33.470
6
Trung du, miền núi
245.300
23.520
9
Bắc Trung Bộ
328.900
98.200
29
Toàn miền
1.120.300
155.200
13,5
Nguồn: Trung tâm khuyến nông Quốc gia.
Một số tỉnh có diện tích lúa gieo thẳng bằng máy gieo rải hang cao như tỉnh Quảng Bình 25.870 ha; tỉnh Quảng Trị 23.450 ha; tỉnh Hải Dương 24.000 ha đạt 38% diện tích trồng lúa của tỉnh; tỉnh Hưng Yên 8.230 ha chiếm 20% diện tích trồng lúa của
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đánh giá hiệu quả kinh tế của mô hình gieo lúa bằng máy gieo rải hàng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.doc