Luận văn Điều tra kỹ thuật và hiệu quả kinh tế trồng cây rau nhút trong mùa lũ tại xã Vĩnh Thạnh Trung Châu Phú - An Giang, mùa lũ 2004

MỤCLỤC

Nộidung Trang

LỜICẢMTẠ i

TÓMLƯỢC ii

MỤCLỤC iii

DANHSÁCHBẢNG v

DANHSÁCHHÌNH vi

Chương 1 GIỚITHIỆU 1

Chương 2 LƯỢCKHẢOTÀILIỆU 3

2.1 Kháiniệmvà chỉtiêukinhtếphụcvụcho nghiêncứu 3

2.1.1 Kháiniệmhiệu quả 3

2.1.2 Mộtsố chỉtiêu kinh tế 3

2.2Mộtsố đặcđiểmcủa cây raunhút 3

2.3 Tìnhhìnhpháttriểnmô hìnhtrồng raunhúttrong mùa lũ 4

2.4 Hiệuquả của mô hìnhtrồng raunhút 4

2.5 Thựctrạng mô hìnhtrồng raunhút 5

Chương 3 VẬTLIỆUVÀPHƯƠNGPHÁPNGHIÊNCỨU 6

3.1 Thuthậpsố liệuthứ cấp 6

3.2 Theo dõi, và điềutra phỏng vấnnông hộ 6

Chương 4 KẾTQUẢVÀTHẢOLUẬN 8

4.1 Đặcđiểmcủa vùng nghiêncứu 8

4.2 Thông tintổng quátvềcáchộ trồng raunhút9

4.2.1 Độ tuổivàtrình độ họcvấn9

4.2.2 Số ngườivàlao động trong nông hộ 10

4.2.3 Kinh nghiệmtrồng rau nhút 11

4.2.4 Đấtcanh tác 12

4.2.5 Thông tin kỹ thuậttrồng rau nhút 12

4.2.6 Vaitrò củaphụ nữ vàtrẻem 12

4.3 Hoạtđộng sảnxuất 13

4.3.1 Mô hình canh tác 13

4.3.2 Kỹ thuậtcanh tác 14

4.3.2.1 Thờivụ 14

4.3.2.2 Phương pháp canh tác 14

4.3.2.3 Nguồn giống 15

4.3.2.4 Chămsóc 17

4.3.2.5 Thu hoạch 19

4.3.2.6 Tiêu thụ sản phẩm 19

4.3.3 Ảnh hưởng củagiống vàphân bón đến năng suấtrau 19

4.3.4 Lao động đầu tư cho sản xuất 21

4.4 Hiệuquả kinhtế 21

4.4.1 Mô hình trồng rau nhút 21

4.4.2 Mô hình kếthợp rau nhútvànuôithuỷ sản 22

4.5 Hiệuquả xã hội 23

4.6 Lý do đểngườidântrồng raunhúttrong mùa lũ 24

4.7 Nhậnxétvềmô hình 25

4.7.1 Những trởngại-hướng khắcphục 25

4.7.2 Cácyếu tố quyếtđịnh sự thành công củamô hình 26

Chương 5 KẾTLUẬNVÀKIẾNNGHỊ 28

5.1 Kếtluận 28

5.2 5.2 Kiếnnghị 28

TÀILIỆUTHAMKHẢO 30

PHỤCHƯƠNG pc-1

Phụ chương 1 pc-1

Phụ chương 2 pc-2

Phụ chương 3 pc-3

 

pdf40 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2872 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Điều tra kỹ thuật và hiệu quả kinh tế trồng cây rau nhút trong mùa lũ tại xã Vĩnh Thạnh Trung Châu Phú - An Giang, mùa lũ 2004, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng năm 2003 có 9,4 ha diện tích mặt nước trồng rau nhút với 34 hộ và 101 lao động. Sang năm 2004, diện tích trồng rau tăng lên 16 ha (sau xã Thạnh Mỹ Tây). 2.4 Hiệu quả của mô hình trồng rau nhút Nhiều địa phương trong vùng ngập nước của tỉnh An Giang đã tận dụng mặt nước trồng rau nhút có lãi từ 11-22 triệu đồng/ha; tỷ lệ lãi/chi phí gấp 4 đến 5 lần (Trung Liêm, 2004). Anh Nguyễn Văn Tấn ở xã An Phong, huyện Thanh Bình (Đồng Tháp) cho biết, rau nhút trồng được khoảng một tháng thì cho thu hoạch, với hơn một công rau nhút cặp bờ ruộng đầu mùa nước nổi mỗi đợt thu hoạch trên dưới 150kg, bán giá bình quân 1000 đồng/kg, thu nhập được 150.000 đồng. Nhờ cần mẫn chăm sóc theo đúng quy trình kỹ thuật nên mỗi mùa nước nổi hằng năm, gia đình anh Tấn đã thu được lợi nhuận từ 3 đến 4 triệu đồng (Báo NNVN, 2004). 1 Chị Võ Thị Kim Loan ở ấp 5 Satô, xã Khánh Bình, huyện An Phú đã dành ra 7 công đất trồng lúa chuyển sang trồng rau nhút. Mỗi ngày gia đình chị thu hoạch bình quân 150 đến 200 kg rau nhút, bán giá 2.000 đồng/kg thì thu nhập mỗi ngày cũng được từ 300.000 đến 400.000 đồng (Trung Liêm, 2004) 2.5 Thực trạng mô hình trồng rau nhút Diện tích mặt nước trồng rau nhút trong mùa nước nổi của huyện Châu Phú tăng lên trung bình 34 ha/năm (Hình 3). Diện tích trồng rau nhút năm 2003 là 61,65 ha (tăng 35,65 ha so với năm 2002). Năm 2004, diện tích trồng rau nhút là 94,85 ha (tăng 33,2 ha so với 2003). Như vậy, tốc độ tăng diện tích của mô hình trồng rau nhút trong mùa lũ là tương đối đều qua các năm. Điều này cho thấy, những nông hộ có diện tích đất bị ngập lũ gần nhà đã nhận thấy được hiệu quả của mô hình rau nhút. Diện tích (ha) 26 61.65 94.85 0 20 40 60 80 100 Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Năm Hình 1. Tình hình biến động diện tích mặt nước trồng rau nhút từ 2002-2004 (Nguồn: số liệu phòng nông nghiệp huyện Châu Phú, 2004) 1 94,85 61,65 Chương 3 VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1 Thu thập số liệu thứ cấp Liên hệ với địa phương thu thập các số liệu về điều kiện tự nhiên, kinh tế-xã hội của vùng nghiên cứu; các báo cáo hàng năm, sách báo, tạp chí và các nghiên cứu trước đây cũng như những kiến thức đã được học ở trường 3.2 Theo dõi và điều tra phỏng vấn nông hộ - Theo dõi, ghi chép cách làm của một số hộ nông dân tiêu biểu đang trồng cây rau nhút trong mùa lũ 2004. Chọn 3 hộ nông dân ở xã Vĩnh Thạnh Trung (có kinh nghiệm, kỹ thuật canh tác và am hiểu điều kiện tự nhiên trong vùng cũng như tập quán canh tác của những nông dân khác. Tiến hành theo dõi quy trình kỹ thuật canh tác, các chi phí đầu vào, cũng như giá cả và đầu ra cho sản phẩm. - Phỏng vấn trực tiếp nông hộ bằng phiếu câu hỏi(Phụ chương 3). Mẫu điều tra được chọn ngẫu nhiên phân bố trong vùng trồng rau nhút tập trung tại 4 ấp của xã Vĩnh Thạnh Trung. Tổng số mẫu điều tra là 30 hộ (Bảng 1). Bảng 1. Số mẫu điều tra tại xã Vĩnh Thạnh Trung - huyện Châu Phú STT Ấp Số mẫu 1 Bình Chiến 7 2 Vĩnh Lợi 8 3 Vĩnh Bình 9 4 Bình An Thạnh Lợi 6 Tổng 30 Số liệu thu thập bao gồm: 1 - Thông tin định tính: Lý do để nông dân trồng cây thuỷ sinh trong mùa lũ; đặc tính đất canh tác cây thuỷ sinh; những trở ngại và hướng khắc phục cây trồng thuỷ sinh; thị trường tiêu thụ sản phẩm; khả năng kết hợp với các mô hình canh tác khác.v.v.. - Thông tin định lượng: các chi phí đầu vào (giống, phân, thuốc, công lao động…) và đầu ra sản phẩm (năng suất, thời điểm bán, giá bán…). - Kỹ thuật canh tác cây trồng thuỷ sinh: cách trồng (qui cách và mật độ), chăm sóc (bón phân, phòng trừ sâu bệnh), thu hoạch (cách thu hoạch, sơ chế, bảo quản, vận chuyển) và tiêu thụ sản phẩm (nơi tiêu thụ, thị trường, giá cả). Vật liệu - Sổ theo dõi, ghi nhận quy trình kỹ thuật trồng của nông hộ. - Phiếu điều tra nông hộ. - Bút mực, bút chì, thước kẻ, sơmi đựng phiếu điều tra. - Các dụng cụ cần thiết khác phục vụ cho công tác nghiên cứu… Phân tích thông kê - Mã hoá số liệu, nhập số liệu trên máy vi tính bằng chương trình Excel - Dùng các dữ liệu tổng hợp đã được phân tích và xử lý để viết báo cáo. - Sử dụng phương pháp thống kê mô tả để tính toán các số liệu về đặc điểm kinh tế - xã hội của nông hộ, những trở ngại khó khăn và các giải pháp (trung bình, độ lệch chuẩn,…) - Phân tích kinh tế toàn phần: Dựa vào chỉ tiêu chi phí, thu nhập, lãi thuần, hiệu quả đồng vốn,.. để làm cơ sở phân tích, đánh giá hiệu quả kinh tế của mô hình canh tác trên địa bàn nghiên cứu. 1 Chương 4 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 4.1 Đặc điểm của vùng nghiên cứu Huyện Châu Phú ở phía Tây Bắc tỉnh an Gang, phía Bắc giáp thị xã Châu Đốc, phía Nam giáp huyện Châu Thành, phía Đông giáp huyện Phú Tân, phía Tây và Tây Nam giáp huyện Tịnh Biên và Tri Tôn. Huyện Châu Phú được chia thành thị trấn Cái Dầu và 12 xã: Bình Mỹ, Bình Thủy, Bình Long, Bình Chánh, Bình Phú, Vĩnh Thạnh Trung, Ô Long Vĩ, Thạnh Mỹ Tây, Đào Hữu Cảnh, Khánh Hòa, Mỹ Phú, và Mỹ Đức (Tỉnh Ủy An Giang, 2005). Đất phù sa hàng năm được nước lũ bồi đắp, cao độ thấp dần từ hướng Đông Bắc và đông, hướng từ bờ sông Hậu trở vào. Do được phù sa bồi đắp hàng năm nên đất gần sông khá tốt, vùng phía Tây và Tây Nam một ít bị nhiễm phèn. Khí hậu có 2 mùa mưa nắng rõ rệt, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa nắng trong các tháng còn lại. Chế độ thuỷ văn chịu ảnh hưởng lũ hàng năm từ giữa tháng 7 đến tháng 12 với đỉnh lũ vào cuối tháng 9, đấu tháng 10, trung bình mực nước cao 2,0 đến 2,5 mét. Khí hậu có 2 mùa mưa nắng rõ rệt, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa nắng trong các tháng còn lại. Chế độ thuỷ văn chịu ảnh hưởng lũ hàng năm từ giữa tháng 7 đến tháng 12 với đỉnh lũ vào cuối tháng 9, đầu tháng 10, trung bình mực nước cao 2,0 đến 2,5 mét Xã Vĩnh Thạnh Trung có phía Đông giáp với sông Hậu, phía Bắc giáp xã Mỹ Phú, phía Nam giáp với xã Bình Long, phía Tây giáp với xã Thạnh Mỹ Tây. Đất thuộc đất phù sa hằng năm được nước lũ bồi đắp nên đất gần sông khá tốt, tổng diện tích đất tự nhiên 2.639 ha, trong đó diện tích đất nông nghiệp 2.115 ha. (Phòng nông nghiệp huyện Châu Phú,2002). 1 Hình 2. Bản đồ xã Vĩnh Thạnh Trung - huyện Châu Phú - tỉnh An Giang 4.2 Thông tin tổng quát về các hộ trồng rau nhút 4.2.1 Độ tuổi và trình độ học vấn Kết quả điều tra cho thấy tuổi các chủ hộ trồng rau nhút từ 21 đến 77 tuổi, bình quân là 46 tuổi. Trong đó có khoảng 93,3% chủ hộ dưới 60 tuổi và 6,7% chủ hộ trên 60 tuổi. Đa số chủ hộ có trình độ học vấn cấp II chiếm 43,3%, cấp I (36,7%), cấp III là 16,7% và chỉ có 3,3% chủ hộ có trình độ cao đẳng/đại học và không có chủ hộ mù chữ (Bảng 2). Tuy nhiên, xét tổng thể 143 nhân khẩu trong 30 hộ thì có đến 16 thành viên trong độ tuổi lao động mù chữ (chiếm 11,2%) và chỉ có 9 thành viên học bậc cao đẳng/đại học (6,2%). Nhìn chung trình độ dân trí của các thành viên trong nông hộ vẫn còn thấp; đây là một rào cản lớn để chuyển giao những tiến bộ khoa học kỹ thuật mới đến nông dân. Do trình độ thấp nên họ thường có tâm lý an phận với những gì mình có, không muốn thay đổi lối sống, sinh hoạt. Họ thích những công việc 1 đơn giản, quen thuộc, ngần ngại khi tiếp xúc với công việc mới do sợ rủi ro và dễ dẫn đến thất bại do lối suy nghĩ đơn giản, không tin tưởng bản thân mình, dễ buông xuôi. Thời gian hoạt động trong nông nghiệp của các chủ hộ ở 4 ấp điều tra là 95%, công việc chủ yếu là trồng rau nhút, nuôi tôm-cá, chăn nuôi gia súc gia cầm,...và thời gian còn lại là hoạt động ngoài nông hộ như: đi ghe, làm thuê mướn,...Thông tin chi tiết về đặc điểm nông hộ được trình bày trong bảng 2. Bảng 2. Đặc điểm của các chủ hộ trồng rau nhút tại xã Vĩnh Thạnh Trung năm 2004 Thông tin về chủ hộ Tỷ lệ (%) Tuổi trung bình: 45,9 Trình độ văn hoá - Cấp I - Cấp II - Cấp III - Cao đẳng/ĐH 36,7 43,3 16,7 3,3 Thời gian hoạt động NN (%) Thời gian hoạt động phi NN (%) 95,0 5,0 4.2.2 Số người và lao động trong nông hộ Kết quả phân tích ở Bảng 3 cho thấy số người bình quân mỗi gia đình là 5 người. Trong đó có 19 hộ có dưới 5 người (chiếm 63,3 %), 10 hộ có từ 6-8 người (chiếm 33,3%) và chỉ có 1 hộ trên 8 người (chiếm 3,33%). Số người trong độ tuổi lao động (từ 18 – 60 tuổi) chiếm 77,62% và lao động phụ chiếm 22,3% (Hình 1). Điều này cho thấy nguồn nhân lực trong độ tuổi lao động của xã Vĩnh Thạnh Trung là đáng kể – đây là một lợi thế cho một xã nông nghiệp. 2 Bảng 3. Nhân khẩu ở các nông hộ được phỏng vấn tại xã Vĩnh Thạnh Trung - huyện Châu Phú - năm 2004 0 20 40 60 80 18 60 Độ tuổi % độ tuổi Hình 3. Nguồn nhân lực trong nông hộ 4.2.3. Kinh nghiệm trồng rau nhút Kết quả phân tích cho thấy kinh nghiệm trồng rau nhút trung bình là 5 năm với khoảng biến thiên từ 1 đến 15 năm. Trong đó, có khoảng 10% người có trên 10 năm kinh nghiệm, 46,7% người có trong khoảng 5-10 năm và 44,3% người có dưới 5 năm kinh nghiệm. Điều này cho thấy mô hình trồng rau nhút đã bắt đầu xuất hiện cách nay khá lâu tại xã, số lượng nông dân có kinh nghiệm trồng tương đối nhiều và đây cũng là một nhân tố tích cực góp phần mang lại hiệu quả sản xuất cao cho nông dân địa phương. 2 Số người/ hộ Số hộ Tỷ lệ (%) 1 - 5 người 19 63,3 6 - 8 người 10 33,3 Trên 8 người 1 3,3 16,7 77,62 5,68 4.2.4. Đất canh tác Trung bình diện tích đất nông nghiệp của 30 hộ điều tra là 1,3 ha. Diện tích nhỏ nhất được ghi nhận là 0,13 ha/hộ và diện tích lớn nhất là 6 ha/hộ. Trong đó, có khoảng 70% hộ có diện tích từ 0,13-1 ha; 23,3% hộ có diện tích trong khoảng 1-5 ha và 2 hộ có diện tích trên 3 ha. Vào mùa lũ, có khoảng 9,97 ha trong tổng số đất nông nghiệp của 30 hộ được dùng để trồng rau nhút. Bình quân mỗi hộ là 0,32 ha. Diện tích trồng ít nhất là 0,1 ha/ hộ và nhiều nhất là 1,5 ha/hộ. Khoảng 13,3% hộ có trồng diện tích đất trồng từ 1 – 1,5 ha, 4 hộ từ 0,3 – 0,9 ha và 73,3% hộ có diện tích trồng nhỏ hơn 0,3 ha. Phần lớn (93,3%) quyền sở hữu ruộng đất là tài sản được thừa hưởng từ ông bà cha mẹ để lại cho con cái, phần còn lại do mua bán trao đổi (3,3%) hoặc thuê mướn (3,3%). Nhìn chung việc trồng rau nhút ở đây đa số phân tán theo các mô hình sản xuất nhỏ, khu vực trồng rải rác ở những khu vực đất thấp, thuộc loại đất sét pha thịt đến đất thịt và không phèn. Vì có diện tích nhỏ nên đa số các hộ sử dụng nguồn lao động gia đình để chăm sóc, góp phần hạn chế chi phí sản xuất do thuê mướn lao động. 4.2.5 Thông tin kỹ thuật trồng rau nhút Phần lớn nông dân tiếp thu các kỹ thuật tiên tiến trong việc trồng và chăm sóc cây rau nhút chủ yếu dựa vào nguồn thông tin từ bạn bè, người thân hay hàng xóm. Có khoảng 6,6% hộ cho biết là học tập kinh nghiệm canh tác qua Tivi, radio; 16,6% tiếp thu kinh nghiệm từ các kỹ thuật viên của huyện – xã; 20% do rút kinh nghiệm từ bản thân và 56,8% kinh nghiệm trồng rau nhút được học hỏi từ hàng xóm, láng giềng hay các nông dân đã trồng trước đó. 4.2.6. Vai trò của phụ nữ và trẻ em Kết quả theo dõi nông hộ cho thấy hầu hết phụ nữ giữ vai trò người nội trợ, chăm sóc con cái và quản lý tiền bạc; thu chi trong gia đình, đôi khi họ còn được xem là nguồn lao động chính, có thể làm thay công việc của những người đàn ông. Trong những gia đình thực hiện mô hình trồng rau nhút trong mùa nước nổi thì các công việc 2 như cấy, hái, phân loại rau,… thường được thực hiện bởi phụ nữ và các trẻ em. Ngoài ra, trẻ em và phụ nữ còn làm thêm các công việc như làm thuê mướn, bắt ốc bươu vàng, hái điên điển,… để tạo thêm thu nhập cho gia đình trong mùa lũ. 4.3. Hoạt động sản xuất 4.3.1. Mô hình canh tác Có hai dạng mô hình canh tác chủ yếu có liên quan đến việc trồng cây rau nhút trong mùa lũ năm 2004 là trồng rau nhút trên ruộng (chiếm 70%) và trồng kết hợp rau nhút với nuôi động vật thuỷ sản (cá - tôm) chỉ chiếm 30%. Song song với hai dạng mô hình trên là hai thời điểm trồng cũng khác nhau: - Do đặc điểm của các mô hình nuôi thuỷ sản là thời gian nuôi phải kéo dài nên việc trồng rau nhút được thực hiện hầu như quanh năm. (6-8 tháng). - Các hộ khác chỉ tận dụng đất ruộng ngập lũ để trồng rau nhút nên thời điểm trồng chỉ ngắn hơn (kéo dài khoảng 3 – 4 tháng/năm). 3,33 70 26,66 0 20 40 60 80 Rau nhút Rau nhút - cá Rau nhút - tôm 2 Mô hình Hình 4. Các mô hình liên quan đến rau nhút % số hộ 4.3.2 Kỹ thuật canh tác 4.3.2.1 Thời vụ Theo tài liệu phát triển nông thôn mùa lũ (2003) thì rau nhút có thể trồng được ở mọi các thời điểm trong năm ở ĐBSCL. Tuy nhiên, qua thực tế khảo sát cho thấy thời gian trồng rau nhút tốt nhất bắt đầu từ tháng 5 vì thời điểm này có đủ nước và nguồn nước tốt. Mùa lũ năm 2004 ở xã Vĩnh Thạnh Trung có đến 83,3% nông dân bắt đầu trồng vào tháng 6; 10% trồng vào tháng 7 và 6,7% trồng trong tháng 5. Điều này được lý giải bởi chế độ thuỷ văn của huyện Châu Phú có mực nước lũ tràn vào ruộng (nước chạy đồng) trong tháng 7 dương lịch, đạt đỉnh lũ cao nhất vào tháng 10 dương lịch,…(Trần Thanh Sơn, 1990). Đối với một số hộ nông dân trồng rau nhút quanh năm (các hộ nuôi kết hợp thuỷ sản) trên một phần diện tích mặt nước với mục đích làm giá thể cho tôm – cá, tạo thêm thu nhập và theo đánh giá của một số nông dân thì rau nhút còn là nguồn thức ăn bổ sung cho cá. 4.3.2.2 Phương pháp canh tác Nông dân trồng rau nhút chủ yếu bằng phương pháp giâm cành (chiếm 97,7%), chỉ có 3,3% số hộ bó đất vào rễ cây thả nổi trên mặt nước. Thường người dân trồng một bụi từ 3 – 6 nhánh với khoảng cách giữa các bụi và các hàng có thể được bố trí rộng hay hẹp tuỳ theo diện tích ruộng trồng và số lượng giống của từng nông hộ. Tuy nhiên, kết quả điều tra cho thấy phần lớn khoảng cách giữa các bụi từ 0,5-1 m và giữa các hàng là 1-1,5 m (Bảng 4). Điều này cũng phù hợp với tài liệu Phát triển Nông thôn mùa lũ (2003) là khoảng cách trồng thích hợp giữa hàng là 1 mét và giữa bụi là 1,5 mét. Theo người dân mực nước trên ruộng thích hợp nhất để trồng rau từ 1 mét trở lên (chiếm 56,7% số hộ). Riêng đối với những hộ trồng rau nhút kết hợp với nuôi tôm thì chỉ thả rau thành từng cụm nhỏ trên nhiều vị trí khác nhau trong ruộng nuôi nên không thể ước lượng được khoảng cách trồng và mực nước trồng rau của các hộ này cũng tuỳ thuộc vào mực nước nuôi tôm. 2 Bảng 4. Khoảng cách và mực nước thích hợp để trồng rau nhút ở xã Vĩnh Thạnh Trung, huyện Châu Phú năm 2004 Khoảng cách (m) Số hộ Tỷ lệ (%) Khoảng cách giữa bụi (n=22) 0,25 – 0,5 7 23,33 0,5 – 1 14 46,67 > 1 1 3,33 Khoảng cách giữa hàng (n=22) 0,25 – 0,5 3 10,00 0,5 – 1 8 26,67 1 – 1,5 9 30,00 > 2 2 6,67 Mực nước thích hợp (*) (n=30) 0,2 – 0,5 4 13,33 0,5 - 1 9 30,00 > 1 17 56,67 Ghi chú: (*) tính từ mặt ruộng đến mặt nước 4.3.2.3 Nguồn giống Trong tổng số 30 hộ điều tra có 9 hộ (chiếm 30%) sử dụng giống nhà (do hộ nông dân tự tạo và bảo quản giống trên một phần đất nhỏ trước khi mang ra cấy trên ruộng trong mùa lũ), còn lại 70% số hộ phải mua giống từ những nông dân khác. Giá giống biến động trong khoảng từ 1.000 đồng đến 1.500 đồng/kg tuỳ thuộc phần nhiều vào chất lượng. Mặt khác, giá giống còn tùy thuộc theo từng thời điểm và cũng chịu sự chi phối của các mối quan hệ xã hội giữa người bán và người mua. Theo nhận xét của các nông dân, giá bán của rau nhút thường cao vào thời điểm đầu mùa lũ (giai đoạn này thiếu giống). Khi nước lên cao thì hầu hết các hộ dân trong vùng đều có rau nhút để bán nên bị dội chợ (giá rau giảm xuống). Giá rau giảm ở mức thấp vào cuối vụ do chất lượng rau giảm và nông dân có khuynh hướng cuốn dây (ngưng trồng). Theo thông tin từ các nông dân trồng rau nhút, có hai giống rau nhút xuất hiện trên ruộng trồng với 2 đặc tính khác nhau là rau nhút xanh (có khả năng phát triển nhanh, ít tốn phân bón), và rau nhút đỏ (cần một lượng phân thuốc khá nhiều mà sức phát triển rất chậm, dẫn đến hiệu quả kinh tế thấp). Do đó, hầu hết các nông dân khi mua rau giống hoặc cấy rau đều có chủ ý chọn rau nhút xanh và loại bỏ giống rau đỏ ra khỏi ruộng để tránh hiện tượng cạnh tranh phân bón, ánh sáng, không gian sống,… 2 Theo khuyến cáo của Phạm Hồng Cúc và ctv., (2001) thì cây con tốt đem cấy phải mang đặc điểm cơ bản của giống, cây to, khoẻ, rễ thẳng và không bị sâu bệnh hoặc giập nát. Cấy cây non thì cây mau bén rễ và phát triển nhanh sau khi cấy. Kết quả khảo sát trên 30 hộ nông dân tại xã Vĩnh Thạnh Trung, các tiêu chuẩn để nhận biết một cây giống tốt được nông dân đưa ra là: cây khoẻ không bệnh (10%), cành non, khoẻ, mập mạp (10%), lá xanh, không gãy đọt (3,33%), lá xanh, phau không bị giập (3,33%), và cây khoẻ, không sâu bệnh và phau không bị giập (73,34%). Từ đó cho thấy đa số nông dân trồng rau nhút đều xác định được tầm quan trọng của việc chọn lựa giống tốt và họ luôn chú ý đến phẩm chất của cây giống trước khi tiến hành cấy giống ra ruộng. Đây cũng là một trong những yếu tố quan trọng dẫn đến sự thành công của mô hình này. Tùy theo khả năng kinh tế và điều kiện chăm sóc mà mỗi nông hộ sử dụng lượng giống khác nhau trên cùng một đơn vị diện tích trồng. Thống kê từ các số liệu điều tra cho thấy có 4 hộ sử dụng lượng giống dưới 1 tấn/ha (chiếm 13,3%), 16 hộ từ 2 - 3 tấn/ha (chiếm 53,4%) và 33,3% hộ sử dụng từ 1 - 2 tấn/ha (Hình 5) 13,3 33,3 53,3 0 10 20 30 40 50 60 4.3.2.4 Chăm sóc Rau nhút là loại cây tương đối dễ trồng, các yêu cầu trong khâu chăm sóc đơn giản chỉ cần bổ sung phân bón, chất dinh dưỡng và phòng trừ sâu bệnh. Việc bón phân đúng lượng và đúng thời gian là yếu tố rất quan trọng trong việc nâng cao năng suất 2 % số hộ Lượng giống (tấn/ha)<1 1-2 2-3 Hình 5. Lượng giống sử dụng của các nông hộ và chất lượng rau. Phân bón được người dân sử dụng trong trồng cây rau nhút chủ yếu là phân vô cơ. Loại phân thường được các nông dân sử dụng cho cây là Urê và DAP. Trong 10 nông hộ có sử dụng cả hai loại Urê và DAP thì có đến 05 hộ dùng với tỷ lệ 1:1. Các nông dân còn lại có sự phối hợp các liều lượng phân khác nhau tuỳ theo mục đích sử dụng; 28,5% hộ chỉ dùng Urê để bón cho cây, cá biệt có 1 hộ sử dụng kết hợp giữa Urê và phân dơi với tỷ lệ (1:2). Khoảng cách giữa hai lần bón phân liên tiếp dao động từ 5 đến 7 ngày. Hầu hết các nông hộ bổ sung phân bón cho cây bằng cách sạ thẳng xuống ruộng (như sạ lúa) chiếm 90,9%, có khoảng 4,54% hộ rải phân theo hàng và 4,54% hộ pha vào bình 16 lít phun đều cho ½ công. Đặc biệt có 8 hộ trồng rau nhút trên các ruộng nuôi tôm thì không sử dụng bất kỳ loại phân bón nào trong suốt quá trình trồng hay thu hoạch rau. Trong quá trình trồng rau nhút phần lớn nông dân đều có sử dụng các loại thuốc dưỡng, thuốc kích thích tăng trưởng cho cây như: Ba lá xanh, Numberone, Atonik,…Đồng thời tuỳ theo từng loại sâu bệnh, người dân thường sử dụng các loại thuốc như Snail, Scord, 2 lúa xanh, Ridomil, Manco,…để diệt ốc bươu vàng, bệnh vàng lá, xoắn lá hay sâu ăn lá trên rau,… Thời điểm bón phân hay xịt thuốc dưỡng (kích thích tố tăng trưởng) là sau khi cấy 1- 3 ngày và sau mỗi lần thu hoạch. 4.3.2.5 Thu hoạch Rau nhút là loại rau cho thời gian thu hoạch tương đối kéo dài với nhiều lần/vụ trồng. Có thể kéo dài từ 5 đến 6 tháng tuỳ thuộc vào điều kiện chăm sóc (Tài liệu phát triển nông thôn mùa lũ, 2003). Thông thường là 10 – 15 ngày sau khi trồng, rau nhút sẽ phát triển và lan rộng ra khắp cả mặt nước trên ruộng. Tiếp đó khoảng nửa tháng, rau nhút bắt đầu cho thu hoạch (Nông thôn đổi mới, 2004). Theo thực tế điều tra cho thấy thời gian thu hoạch lần đầu tiên của các nông hộ ngắn nhất là 6 ngày (nhằm kích thích cây mọc thêm nhánh mới) và dài nhất là 20 ngày sau khi cấy. Khoảng cách giữa hai đợt cắt cũng khác nhau giữa các hộ trồng - điều này cũng tuỳ thuộc vào diện tích trồng. Đối với diện tích trồng lớn thì nông dân thu tỉa theo từng khoảnh ở mỗi lần cắt. Đối với những hộ trồng trên một diện tích nhỏ thì thời gian thu hoạch thay đổi từ 4 2 đến 7 ngày/lần. Thông thường, thời gian kết thúc toàn vụ của mô hình trồng cây rau nhút vào khoảng cuối tháng 10, đầu tháng 11 dương lịch. Thời điểm bắt đầu trồng khác nhau nên độ dài mùa vụ trồng rau nhút của các hộ cũng khác nhau. Cá biệt trong 30 hộ nông dân được điều tra ở xã Vĩnh Thạnh Trung năm 2004, có 01 hộ chỉ thu hoạch được 1 cữ (sau 15 ngày cấy) do hộ này không cắm cọc, căng dây giữ hàng nên bị lũ đánh trôi, gãy đọt. Có 1 hộ cho thu hoạch trong 2 tháng, nhưng các hộ còn lại có thời gian thu hoạch kéo dài từ 3 – 4 tháng. Năng suất rau thu hoạch trung bình là 14 tấn/ha/toàn vụ. Năng suất cao nhất đạt 28,75 tấn/ha/vụ và thấp nhất là 0,3 tấn/ha. Trong 30 hộ điều tra, có 20% số hộ cho năng suất thu hoạch toàn vụ dưới 10 tấn/ha, 53,3% số hộ cho năng suất từ 10 - 20 tấn/ha, và 26,7% hộ thu hoạch trên 20 tấn/ha (Hình 6). 20 53,3 26,7 0 10 20 30 40 50 60 4.3.2.6. Tiêu thụ sản phẩm Hầu hết sản lượng rau nhút thu hoạch đều được các thương lái thu mua tại nhà bằng phương tiện ghe tàu để đưa ra các chợ đầu mối ở nhiều tỉnh. Một số lượng rất ít được nông dân khác mua về làm giống. Trong khâu tiêu thụ sản phẩm, nông dân trồng 2 %số hộ Năng suất (tấn) >2010-20<10 Hình 6. Năng suất toàn vụ trên 1 ha rau nhút có lợi thế là không tốn chi phí vận chuyển. Giá cả chênh lệch khoảng từ 900 đến 1.800 đồng/kg tuỳ theo thời điểm. Giá bán trung bình trong toàn vụ là 1.310 đồng/kg. Nông dân bán đi phần lớn lượng rau thu hoạch được, lượng rau để tiêu thụ trong gia đình là không đáng kể. 4.3.3 Ảnh hưởng của giống và phân bón đến năng suất rau Qua kết quả phân tích cho thấy có sự ảnh hưởng của lượng giống sử dụng trên đơn vị diện tích đến năng suất thu hoạch rau trong toàn vụ (Bảng 6). Tăng lượng giống sử dụng ban đầu thì làm năng suất rau cũng tăng. Tuy nhiên, khi tăng lượng giống ban đầu trên 2 tấn/ha thì năng suất rau có khuynh hướng giảm. Điều này có thể được giải thích bởi việc xảy ra sự cạnh tranh về dinh dưỡng, ánh sáng và không gian sống trên 1 ha mặt nước. Bảng 5. Ảnh hưởng của lượng giống sử dụng đến năng suất rau nhút Lượng giống sử dụng Số hộ Lượng giống trung bình (tấn/ha) Năng suất trung bình (tấn/ha) Dưới 1 tấn/ha 4 0,743 11,700 Từ 1 - 2 tấn/ha 10 1,442 15,043 Trên 2 tấn/ha 16 2,266 14,849 Tương tự như lượng giống sử dụng ban đầu, khi tăng lượng phân bón có tác dụng thúc đẩy nhanh sự sinh trưởng và phát triển của rau, nhưng chỉ trong một giới hạn nhất định nếu bón phân dư thừa sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế do rau không thể phát triển hơn được nữa đồng thời chi phí đầu vào cho sản xuất cũng tăng lên. (Bảng 6). Bảng 6. Ảnh hưởng của lượng phân sử dụng đến năng suất rau nhút Lượng phân sử dụng Số hộ Lượng phân trung bình (tấn/ha) Năng suất trung bình (tấn/ha) Dưới 1 tấn/ha 09 0,568 11,649 Từ 1 – 2 tấn/ha 11 1,397 19,204 Trên 2 tấn/ha 02 2,250 18,013 2 Như vậy khi trồng rau nhút, nông dân cần xác định được lượng giống thích hợp cho diện tích mặt nước của nông hộ và sử dụng phân bón hợp lý tuỳ theo giai đoạn sinh trưởng của cây và điều kiện ngoại cảnh để không làm hư cây và hao hụt phân bón. 11.7 11.65 15.04 19.2 14.84 18.01 0 5 10 15 20 4.3.4. Lao động đầu tư cho sản xuất Kết quả điều tra cho thấy nông dân đầu tư trung bình khoảng 52 ngày công lao động cho 1 ha rau nhút trong vòng 3 tháng. Lao động gia đình là nguồn lao động chính của những hộ trồng rau nhút mùa lũ ở xã Vĩnh Thạnh Trung. Tuy nhiên, việc thuê mướn lao động cũng được sử dụng trong thời gian cấy giống hoặc thu hoạch,… và đôi khi vẫn phải thuê mướn trong khâu chăm sóc (bón phân và xịt thuốc). Phần lớn nông hộ thuê mướn lao động trong địa phương do đó góp phần giải quyết việc làm cho nông dân trong mùa lũ. 3 Năng suất (tấn/ha) Lượng dùng (tấn/ha) Hình 7. Mối tương quan giữa giống, phân bón với năng suất 2 4.4 Hiệu quả kinh tế 4.4.1 Mô hình trồng rau nhút Kết quả phân tích ở Bảng 7 cho thấy mô hình trồng rau nhút trong mùa lũ cho lợi nhuận tương đối cao. Trong trường hợp không có tính công lao động gia đình vào chi phí sản xuất thì lợi nhuận của mô hình là 13,3 triệu/ha. Còn trường hợp có tính công lao động gia đình vào chi phí sản xuất thì lợi nhuận của mô hình chỉ đạt 11,6 triệu/ha. Theo thống kê từ các mẫu điều tra cho thấy nếu tất cả các khâu trong sản xuất đều phải thuê mướn thì có khoảng 6,6% hộ gia đình trồng rau nhút có lời trên 20 triệu/ha, 30% hộ lời dưới 10 triệu/ha, và duy nhất chỉ có 1 hộ lỗ hoàn toàn. Khi loại trừ công gia đình ra khỏi chi phí sản xuất thì có đến 20% hộ gia đình có lời trên 20 triệu/ha, 27% hộ lời dưới 10 triệu và cũng chỉ có 1 hộ sản xuất thua lỗ. Từ đó cho thấy công gia đình đã góp một phần quan trọng trong sản xuất nông nghiệp nước ta, nếu biết lấy công làm lời thì sẽ gia tăng thêm phần lợi nhuận hoặc sẽ giảm bớt thiệt hại về vốn. Theo Tạp san Nông thôn đổi mới thì khả năng mang lại lợi nhuận cao từ mô hình này không phải chỉ do phần hiệu quả kinh tế mang lại mà còn thể hiện bởi các ảnh hưởng tích cực rất lớn của mô hình này đối với việc canh tác lúa do sau khi thu hoạch rau xong, dùng máy cày - trục nhấn rau nhút xuống đất để làm tăng thêm độ màu mỡ c

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfDIEU TRA KY THUamp194T VA HIEU QUA KINH TE TRONG CAY RAU NHUT TRONG MUA LU TAI XA VINH THANH TRU.PDF
Tài liệu liên quan