MỤC LỤC
Lời cảm ơn . i
Danh mục các từ viết tắt.ii
Danh mục các bảng, sơ đồ .vi
MỞ ĐẦU . 1
CHưƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO
DỤC ĐẠO ĐỨC HỌC SINH Ở TRưỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG .6
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu. 6
1.2. Một số khái niệm cơ bản. 9
1.2.1. Quản lý . 9
1.2.2. Quản lý giáo dục . 10
1.2.3. Khái niệm quản lý nhà trường . 12
1.2.4. Khái niệm đạo đức . 13
1.2.5. Giáo dục đạo đức. 15
1.2.6. Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức. 16
1.3. Lý luận về giáo dục đạo đức học sinh trong trường THPT . 16
1.3.1. Mục tiêu của giáo dục đạo đức. 16
1.3.2. Ý nghĩa của giáo dục đạo đức. 17
1.3.3. Nhiệm vụ của giáo dục đạo đức. 18
1.3.4. Nội dung của giáo dục đạo đức . 18
1.3.5. Con đường giáo dục đạo đức. 19
1.3.6. Phương pháp giáo dục đạo đức. 20
1.4. Lý luận về quản lý hoạt động giáo dục đạo đức học sinh THPT. 22
1.4.1. Chức năng nhiệm vụ của Hiệu trưởng trường THPT. 22
1.4.2. Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức học sinh của Hiệu trưởng
trường THPT . 24
1.5. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc giáo dục đạo đức học sinh THPT. 28
1.5.1 Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh THPT. 28
1.5.2. Yếu tố gia đình . 29iv
1.5.3. Yếu tố nhà trường. 30
1.5.4. Yếu tố xã hội. 30
Tiểu kết chương 1. 32
CHưƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GDĐĐ
HỌC SINH Ở TRưỜNG THPT QUAN LẠN HUYỆN VÂN ĐỒN
TỈNH QUẢNG NINH.
2.1. Khái quát địa bàn nghiên cứu.
2.1.1. Vài nét về đặc điểm kinh tế - xã hội, giáo dục của huyện Vân Đồn
2.1.2. Đặc điểm của trường THPT Quan Lạn huyện Vân Đồn
2.2. Tổ chức khảo sát thực trạng .
2.2.1. Mục đích khảo sát .
2.2.2. Nội dung khảo sát .
2.2.3. Đối tượng khảo sát.
2.2.4. Phương pháp thu thập và xử lý số liệu
2.3. Thực trạng đạo đức học sinh trường THPT Quan Lạn huyện
Vân Đồn tỉnh Quảng Ninh.
2.3.1. Kết quả xếp loại hạnh kiểm học sinh trường THPT Quan Lạn
2.3.2. Thực trạng vi phạm đạo đức học sinh trường THPT Quan Lạn
2.3.3. Các nguyên nhân ảnh hưởng đến vi phạm đạo đức học sinh
2.4. Hoạt động GDĐĐ HS tại trường THPT Quan Lạn huyện Vân Đồn
2.4.1. Nhận thức vai trò của hoạt động GDĐĐ HS
2.4.2. Thực trạng hoạt động GDĐĐ học sinh ở trường THPT Quan
Lạn huyện Vân Đồn.
2.5. Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục đạo đức học sinhError! Bookmark not d
2.5.1. Công tác xây dựng kế hoạch.
2.5.2. Công tác tổ chức .
2.5.3. Thực trạng công tác chỉ đạo thực hiện
2.5.4. Thực trạng công tác kiểm tra đánh giá
2.6. Đánh giá chung về thực trạng quản lý hoạt động GDĐĐ học sinh
ở trường THPT Quan Lạn huyện Vân Đồn
2.6.1. Những kết quả đạt được. v
2.6.2. Nguyên nhân thực trạng.
2.6.3. Thuận lợi, khó khăn trong công tác quản lý hoạt động giáo dục
đạo đức học sinh ở trường THPT Quan Lạn huyện Vân ĐồnError! Bookmark not de
Tiểu kết chương 2.
CHưƠNG 3: BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC HỌC SINH TRưỜNG THPT QUAN LẠN HUYỆN VÂN
ĐỒN TỈNH QUẢNG NINH .
3.1. Một số nguyên tắc đề xuất biện pháp.
3.1.1. Nguyên tắc bảo đảm tính đồng bộ .
3.1.2. Nguyên tắc bảo đảm tính thực tiễn .
3.1.3. Nguyên tắc bảo đảm tính khả thi .
3.1.4. Nguyên tắc bảo đảm tính hiệu quả .
3.2. Biện pháp quản lý hoạt động GDĐĐ học sinh của hiệu trưởng
trường THPT Quan Lạn huyện Vân Đồn tỉnh Quảng NinhError! Bookmark not de
3.2.1. Biện pháp 1: Nâng cao nhận thức của các thành viên trong nhà
trường về hoạt động GDĐĐ học sinh.
3.2.2. Biện pháp 2: Xây dựng môi trường sư phạm mẫu mực trong nhà trườngError! Bookm
3.2.3. Biện pháp 3: Xây dựng cơ chế quản lý chỉ đạo, phối hợp các lực
lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường để giáo dục đạo đức học sinhError! Bookmar
3.2.4. Biện pháp 4: Nâng cao hiệu quả công tác tổ chức, chỉ đạo kế
hoạch giáo dục đạo đức học sinh.
3.2.5. Biện pháp5: Tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá hoạt động
giáo dục đạo đức, biểu dương kịp thời những tấm gương người tốt việc tốt
3.3. Mối quan hệ giữa các biện pháp.
3.4. Khảo nghiệm tính cấp thiết và tính khả thi của các biện pháp
3.4.1. Mục đích, nội dung, cách thức khảo nghiệm
3.4.2. Kết quả khảo nghiệm.
Tiểu kết chương 3.
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO . 33
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức học sinh ở trường trung học phổ thông Quan Lạn, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ọc" [Trích: 20].
Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường, nền kinh tế mở đầy năng động
hiện nay đã tạo ra những định hướng giá trị xã hội mới, bên cạnh những giá
trị đạo đức truyền thống tốt đẹp, những giá trị của con người trong thời đại
mới cũng được hình thành. Đã có nhiều bài viết, công trình nghiên cứu của
các tác giả về đạo đức và GDĐĐ học sinh:
8
Tác giả Phạm Minh Hạc đã nêu lên các định hướng giá trị đạo đức con
người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa (CNH-HĐH)
đất nước và nêu lên 6 giải pháp cơ bản để giáo dục đạo đức con người Việt
Nam trong thời kỳ CNH-HĐH: “ Tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức giáo
dục đạo đức trong các trường học; củng cố ý tưởng giáo dục ở gia đình và
cộng đồng, kết hợp chặt chẽ giáo dục nhà trường trong việc giáo dục đạo đức
cho học sinh, kết hợp chặt chẽ giáo dục đạo đức với việc thực hiện nghiêm
chỉnh luật pháp của các cơ quan thi hành pháp luật. Tổ chức thống nhất các
phong trào thi đua yêu nước và các phong trào rèn luyện đạo đức, lối sống
cho toàn dân, trước hết là cán bộ đảng viên, thầy cô giáo các trường học, xây
dựng một cơ chế tổ chức và chỉ đạo thống nhất toàn xã hội về giáo dục đạo
đức, nâng cao nhận thức cho mọi người” [12, tr.71-72].
Tác giả Hà Nhật Thăng đã nghiên cứu sự phát triển trí lực - tâm lực -
thể lực của mỗi con người, trong đó phải coi tâm lực là nội lực của sự phát
triển con người, đồng thời tác giả đã viết cuốn sách: " Rèn luyện kỹ năng sư
phạm” nhằm cung cấp những kỹ năng sư phạm cần thiết cho sinh viên sư
phạm và đội ngũ giáo viên để nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức trong các
nhà trường phổ thông [23].
Các tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc - Đinh Thị Kim Thoa - Trần Văn Tính
- Vũ Phương Liên đã nghiên cứu giáo dục giá trị sống nhằm giáo dục đạo đức
cho học sinh THPT, đồng thời các tác giả đã viết cuốn sách “Giáo dục giá trị
sống và kỹ năng sống cho học sinh trung học phổ thông”, đây là tài liệu bổ
ích cho đội ngũ giáo viên THPT trong việc giáo dục đạo đức lối sống cho học
sinh hiện nay và đã được rất nhiều trường THPT sử dụng [15].
Nghiên cứu về quản lý hoạt động GDĐĐ học sinh, có một số tác giả
nghiên cứu như sau:
Tác giả Nguyễn Quang Vinh đã đề cập đến các giải pháp để nâng cao chất
lượng giáo dục đức học sinh THPT huyện Vũ Thư tỉnh Thái Bình và đề xuất 6
giải pháp quản lý để nâng cao chất lượng giáo dục đức học sinh THPT [27].
9
Tác giả Nguyễn Phương Liên đề cập đến quản lý giáo dục truyền thống
cho học sinh qua đó giáo dục đạo đức học sinh tại các trường THPT huyện Từ
Liêm thành phố Hà Nội, qua đó đánh gia thực trạng đạo đức truyền thống của
học sinh huyện Từ Liêm, đề ra các biện pháp giáo dục đạo đức cho HS trên
địa bàn [17].
Qua một số nghiên cứu và thực tiễn giáo dục đạo đức trên đây cho thấy,
giáo dục đạo đức học sinh THPT là công việc khó khăn, vất vả, phức tạp đòi
hỏi phải có những biện pháp phù hợp, GDĐĐ học sinh phổ thông là mối quan
tâm không chỉ của những người làm công tác giáo dục mà còn là của toàn xã
hội, nhất là trong tình hình xã hội ta hiện nay.
Tuy nhiên chưa có đề tài nào nghiên cứu về quản lý hoạt động GDĐĐ
học sinh ở trường THPT Quan Lạn huyện Vân Đồn - một huyện đảo đang
trên đà hội nhập và chịu nhiều ảnh hưởng của sự phát triển kinh tế, văn hóa xã
hội, đô thị của tỉnh Quảng Ninh. Vì vậy, tôi chọn đề tài này với hy vọng góp
phần nhỏ bé vào việc nâng cao hiệu quả GDĐĐ cho học sinh THPT huyện
Vân Đồn tỉnh Quảng Ninh.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Quản lý
Từ khi con người sống thành xã hội có sự phân công hợp tác trong lao
động thì bắt đầu xuất hiện sự quản lý. Tính chất của việc quản lý thay đổi và
phát triển theo sự phát triển của xã hội loài người, nhằm bảo đảm cho sự tồn
tại và phát triển của xã hội.
Theo từ điển tiếng Việt thông dụng, thuật ngữ “quản lý” được định nghĩa
là: “Tổ chức, điều khiển hoạt động của một đơn vị, cơ quan”[26].
Theo K.Marx: “Quản lý là lao động điều khiển lao động”. K.Marx đã
viết: “Bất cứ lao động hay lao động chung nào mà tiến hành trên một quy mô
lớn, đều yêu cầu phải có một sự chỉ đạo để điều hoà những hoạt động cá
nhân... Một nhạc sĩ độc tấu thì điều khiển lấy mình, nhưng một dàn nhạc thì
phải có nhạc trưởng”[4, tr. 350].
10
Nhà triết học V.G. Afnatsev cho rằng, quản lý xã hội một cách khoa
học là nhận thức, phát hiện các quy luật, các khuynh hướng vận động của xã
hội và hướng sự vận động của xã hội cho phù hợp với các khuynh hướng đó;
là phát hiện và giải quyết kịp thời các mâu thuẫn của sự phát triển; là duy trì
sự thống nhất giữa chức năng và cơ cấu của hệ thống; là tiến hành một đường
lối đúng đắn dựa trên cơ sở tính toán nghiêm túc những khả năng khách quan,
mối tương quan giữa các lực lượng xã hội...[ Trích: 10, tr.326].
Frederick Winslow Taylor (1856-1915) là nhà thực hành quản lý khoa
học về lao động đã đưa ra định nghĩa: “Quản lý là biết được chính xác điều
bạn muốn người khác làm, và sau đó hiểu được rằng họ đã hoàn thành công
việc một cách tốt nhất [Trích: 10, tr.327].
Henry Fayol (1841-1925) đã xuất phát từ nghiên cứu các loại hình hoạt
động quản lý và phân biệt thành 5 chức năng cơ bản: “kế hoạch hoá, tổ chức,
chỉ huy, phối hợp và kiểm tra” và sau này được kết hợp lại thành 4 chức năng
cơ bản của quản lý: kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra. Những cống hiến
của ông về lý luận quản lý đã mang tính phổ quát cao và nhiều luận điểm đến
nay vẫn còn giá trị khoa học và thực tiễn [Trích: 10, tr.327-328].
Tác giả Nguyễn Ngọc Quang cho rằng: “Quản lý là tác động có mục đích
có kế hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những người lao động nói chung là
khách thể quản lý, nhằm thực hiện được mục tiêu dự kiến” [21].
Theo tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc: "Quản lý là tác động có định hướng, có
chủ đích của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý trong một tổ chức nhằm làm
cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức" [16].
Từ quan niệm của các học giả đã nêu, chúng ta có thể khái quát lại:
“Quản lý là hoạt động có ý thức của con người nhằm định hướng, tổ chức, sử
dụng các nguồn lực và phối hợp hành động của một nhóm người hay một
cộng đồng người để đạt được các mục tiêu đề ra một cách hiệu quả nhất”.
1.2.2. Quản lý giáo dục
Giáo dục là một loại hình, lĩnh vực hoạt động xã hội rộng lớn được
11
hình thành do nhu cầu phát triển, tiếp nối các thế hệ của đời sống xã hội thông
qua quá trình truyền thụ tri thức và kinh nghiệm xã hội của các thế hệ trước
cho các thế hệ sau. Cũng như bất kỳ một hoạt động xã hội nào, hoạt động
giáo dục cần được tổ chức và quản lý với cấp độ khác nhau (nhà nước, nhà
trường, lớp học...) nhằm thực hiện có hiệu quả mục đích và các mục tiêu
giáo dục phù hợp với từng giai đoạn phát triển của các thể chế chính trị - xã
hội ở các quốc gia. Để hoạt động giáo dục đạt được mục tiêu, cần thiết phải
có công tác quản lý, có nhiều tác giả nghiên cứu về vấn đề này, sau đây là
một số khái niệm của các tác giả khác nhau.
P.V Khuđôminxky cho rằng: “Quản lý giáo dục là tác động có hệ thống,
có kế hoạch, có ý thức, có mục đích của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau
đến tất cả các khâu của hệ thống nhằm đảm bảo việc giáo dục cộng sản chủ
nghĩa cho thế hệ trẻ, đảm bảo sự phát triển toàn diện và hài hoà của họ trên cơ
sở nhận thức và sử dụng các quy luật khách quan của quá trình dạy học và giáo
dục, của sự phát triển thể chất và tâm lý của trẻ em” [Trích: 10, tr.341]
Theo tác giả Trần Kiểm: “Quản lý giáo dục là những tác động có hệ
thống, có kế hoạch, có ý thức và hướng đích của chủ thể quản lý ở mọi cấp
khác nhau đến tất cả các mắt xích của toàn bộ hệ thống nhằm mục đích đảm
bảo sự hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ trên cơ sở quy luật của quá trình
giáo dục về sự phát triển thể lực, trí lực và tâm lực trẻ em” [13].
Theo Nguyễn Ngọc Quang thì: “Quản lý giáo dục là hệ thống tác động
có mục đích, có kế hoạch phù hợp quy luật của chủ thể quản lý, nhằm làm cho
hệ thống vận hành theo đường lối giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính
chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà tiêu điểm hội tụ là quá
trình dạy - học, giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục đến mục tiêu dự kiến, tiến
lên trạng thái mới về chất” [21].
Tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Nguyễn Quốc Chí cho rằng: “Quản lý
giáo dục là hoạt động có ý thức bằng cách vận dụng các quy luật khách quan
của nhà quản lý giáo dục tác động đến toàn bộ hệ thống giáo dục nhằm làm
cho hệ thống đạt được mục tiêu của nó” [16].
12
Mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau, song có thể thấy các tác giả đều
cho thấy: QLGD chính là quá trình tác động có mục đích, có ý thức của chủ
thể quản lý đến tất cả các đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra
của tổ chức đó.
1.2.3. Khái niệm quản lý nhà trường
Quản lý nhà trường là một bộ phận trong quản lý giáo dục. Nhà trường
chính là nơi tiến hành các quá trình giáo dục có nhiệm vụ trang bị kiến thức
cho một nhóm dân cư nhất định, thực hiện tối đa một quy luật tiến bộ xã hội
là: thế hệ đi sau phải lĩnh hội được tất cả những kinh nghiệm xã hội mà các
thế hệ đi trước đã tích luỹ và truyền lại, đồng thời phải làm phong phú thêm
những kinh nghiệm đó.
Tác giả M.I.Kônđacốp đã viết: “Không đòi hỏi một định nghĩa hoàn
chỉnh, chúng ta hiểu quản lý nhà trường (công việc nhà trường) là một hệ
thống xã hội - sư phạm chuyên biệt. Hệ thống này đòi hỏi những tác động có ý
thức, có kế hoạch hướng đích của chủ thể quản lý đến tất cả các mặt của đời
sống nhà trường, nhằm đảm bảo sự vận hành tối ưu về các mặt xã hội - kinh tế,
tổ chức - sư phạm của quá trình dạy học và giáo dục thế hệ đang trưởng
thành”[Trích: 11].
Theo tác giả Phạm Minh Hạc “Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối
giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường
vận hành theo nguyên lý giáo dục, để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào
tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và từng học sinh” [11].
Quản lý trực tiếp trường học bao gồm quản lý tổ chức giảng dạy, học
tập và các hoạt động giáo dục khác theo mục tiêu, chương trình giáo dục, tài
chính, nhân lực, hành chính và quản lý môi trường giáo dục [2].
Trong quản lý và thực tiễn quản lý nhà trường gồm 2 loại quản lý:
Một là: Quản lý của chủ thể bên trên và bên ngoài nhà trường nhằm
định hướng cho nhà trường, tạo điều kiện cho nhà trường hoạt động và phát
triển (Các cấp quản lý nhà nước và sự hợp tác, giám sát xã hội/ cộng đồng).
13
Hai là: Quản lý của chính chủ thể bên trong nhà trường, hoạt động
tổ chức các chủ trương, chính sách giáo dục thành các kế hoạch hoạt
động, tổ chức chỉ đạo và kiểm tra để đưa nhà trường đạt tới những mục
tiêu đã đề ra (thực hiện các chức năng quản lý của một tổ chức).
Tóm lại, quản lý nhà trường là quản lý giáo dục được thực hiện trong
phạm vi xác định của một đơn vị giáo dục nhà trường, nhằm thực hiện nhiệm
vụ giáo dục thế hệ trẻ theo yêu cầu của xã hội.
Hiện nay các nhà quản lý trường học quan tâm nhiều đến các thành tố
mục tiêu, nội dung, phương pháp, tổ chức quản lý và kết quả. Đó là các thành
tố trung tâm của quá trình sư phạm, nếu quản lý và tác động hợp quy luật sẽ
đảm bảo cho một chất lượng tốt trong nhà trường. Dưới đây là mô hình quản
lý nhà trường.
Người dạy Quá trình Dạy-Học/Giáo dục Người học
Tổ chức/hành chính Chương trình/PPGD
Cơ sở vật chất/ tài chính
Sơ đồ 1.1: Sơ đồ mô hình quản lý nhà trường theo mục tiêu giáo dục
1.2.4. Khái niệm đạo đức
Đạo đức là một hiện tượng xã hội, là một hình thái ý thức đặc biệt phản
ánh mối quan hệ hiện thực bắt nguồn từ bản thân cuộc sống của xã hội loài
người. Đạo đức bao gồm những nguyên tắc, chuẩn mực, định hướng giá trị
được xã hội thừa nhận, có tác dụng chi phối, điều chỉnh hành vi của con
người trong quan hệ với người khác và với xã hội.
Bàn về đạo đức đã có nhiều định nghĩa khác nhau:
Mục tiêu
GD
14
Theo chủ nghĩa Mác- Lênin, đạo đức là cái có thật trong ý thức xã hội,
trong đời sống tinh thần của con người nghĩa là về lý luận nó là bộ phận của kiến
trúc thượng tầng xã hội. Đạo đức tồn tại trong mọi ý thức, hoạt động giao lưu,
trong toàn bộ hoạt động sống của con người. Đạo đức là những phẩm chất tốt
đẹp của con người, do tu dưỡng theo những tiêu chuẩn đạo đức mà có. Đời sống
đạo đức của mỗi người gồm có : Ý thức đạo đức, tình cảm, niềm tin đạo đức,
hành vi đạo đức, vận động trong mối quan hệ biện chứng [5].
Trong từ điển tiếng Việt có nêu: “Đạo đức là những tiêu chuẩn, nguyên
tắc được dư luận xã hội thừa nhận, quy định hành vi quan hệ của con người
đối với nhau và đối với xã hội” [26].
Theo tác giả Phạm Khắc Chương và Hà Nhật Thăng: “Đạo đức là một
hình thái của ý thức xã hội, là tổng hợp những qui tắc, nguyên tắc, chuẩn mực
xã hội, nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù
hợp với hạnh phúc của con người và tiến bộ xã hội trong quan hệ xã hội giữa
con người với con người, giữa cá nhân và xã hội” [5, tr.51].
Đạo đức bị chi phối bởi điều kiện chính trị, kinh tế xã hội, truyền thống
dân tộc, tôn giáo. Ở nước ta, trong xã hội phong kiến, chuẩn mực đạo đức là “
Nhân- Lễ - Nghĩa- Trí- Tín”, riêng người phụ nữ còn phải có “ Tam tòng - Tứ
đức”. Đến thời đại Hồ Chí Minh, Người quan niệm đạo đức là “ Nhân –
Nghĩa – Trí –Dũng - Liêm”, đó là đạo đức cách mạng, đạo đức mới, đạo đức
vì lợi ích của Đảng, của dân tộc, của loài người. Tấm gương đạo đức của Chủ
tịch Hồ Chí Minh tiêu biểu cho đạo đức của thời đại chúng ta ngày nay.
Tuy có nhiều định nghĩa khác nhau, nhưng có hai quan điểm lớn về
đạo đức:
+ Quan điểm đạo đức truyền thống: Đạo đức là hệ thống những nguyên
tắc, qui tắc, chuẩn mực xã hội, nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi
của mình trong mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người
với cộng đồng người, giữa con người với xã hội.
+ Quan điểm hiện đại: Đây là quan điểm của các nhà nghiên cứu chương
15
trình khoa học công nghệ cấp nhà nước do GS.VS Phạm Minh Hạc đứng đầu.
Theo các tác giả thì đạo đức phải thể hiện ở 5 mối quan hệ:
- Con người với chính bản thân
- Con người với con người
- Con người với công việc (học tập, lao động)
- Con người với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội
- Con người với lý tưởng của dân tộc
Tóm lại, về bản chất, đạo đức là những qui tắc, những chuẩn mực trong
quan hệ xã hội được hình thành và phát triển trong cuộc sống. Những qui tắc,
những chuẩn mực đạo đức đó được mọi người, được xã hội thừa nhận và tự
giác thực hiện.
Đạo đức có vai trò rất lớn trong xã hội, nhất là trong việc hình thành và
phát triển nhân cách con người. Vai trò của đạo đức thể hiện trong các chức
năng của đạo đức: Chức năng giáo dục, Chức năng nhận thức, Chức năng
điều chỉnh hành vi.
- Chức năng giáo dục: Đây là chức năng quan trọng nhất của đạo đức,
Những chuẩn mực đạo đức được tập thể và cộng đồng thừa nhận sẽ tác động
vào ý thức và hành vi của mỗi cá nhân để mỗi cá nhân tự giáo dục, rèn luyện,
hoàn thiện nhân cách của mình theo chuẩn mực chung của xã hội.
- Chức năng nhận thức: Đạo đức là công cụ giúp con người nhận thức
xã hội về mặt đạo đức.
- Chức năng điều chỉnh hành vi: Đạo đức có tác dụng điều chỉnh hành
vi, hoạt động của con người phù hợp với lợi ích chung của xã hội, của cộng
đồng.
Vậy có thể hiểu: Đạo đức là một hệ thống những quy tắc những chuẩn
mực mà qua đó con người tự nhận thức và điều chỉnh hành vi của mình vì
hạnh phúc của cá nhân, lợi ích của tập thể và cộng đồng.
1.2.5. Giáo dục đạo đức
Theo Makarenko: “GDĐĐ có nghĩa là rèn luyện những phẩm chất tốt cho
16
học sinh (tính trung thực, thật thà, thái độ tận tâm, tinh thần trách nhiệm, ý thức
kỷ luật, lòng yêu thích học tập, thái độ XHCN đối với người lao động, chủ nghĩa
yêu nước) và trên cơ sở đó uốn nắn những sai sót của chúng” [14,tr.18].
Như vậy ta có thể hiểu, GDĐĐ là hoạt động của các nhà giáo dục tác
động có hệ thống lên người được giáo dục một cách có mục đích, có kế hoạch
những phẩm chất và tư tưởng mà nhà giáo dục kỳ vọng, chuyển hoá những
quan điểm, yêu cầu và ý thức xã hội có liên quan thành phẩm chất đạo đức, tư
tưởng và hành vi đạo đức của mỗi cá nhân.
Về bản chất, GDĐĐ là quá trình biến hệ thống các chuẩn mực đạo đức
từ những đòi hỏi bên ngoài của xã hội đối với cá nhân thành những đòi hỏi
bên trong của cá nhân, thành niềm tin, nhu cầu, thói quen của người được
giáo dục. Trong đó mục tiêu quan trọng nhất của GDĐĐ là hình thành thói
quen hành vi đạo đức.
1.2.6. Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức
Từ các khái niệm: quản lý, QLGD và GDĐĐ, ta có thể hiểu quản lý hoạt
động GDĐĐ là sự tác động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch của chủ thể
quản lý (Hiệu trưởng nhà trường) đến khách thể quản lý (nội dung, chương
trình, cơ sở vật chất, đội ngũ GV, HS ) nhằm đưa hoạt động GDĐĐ học
sinh đến kết quả mong muốn một cách hiệu quả nhất.
Về bản chất, quản lý hoạt động GDĐĐ là quá trình tác động có định
hướng của chủ thể quản lý lên các thành tố tham gia vào quá trình hoạt động
GDĐĐ nhằm thực hiện mục tiêu GDĐĐ. Như vậy, quản lý hoạt động GDĐĐ
là hoạt động điều hành công tác GDĐĐ.
1.3. Lý luận về giáo dục đạo đức học sinh trong trƣờng THPT
1.3.1. Mục tiêu của giáo dục đạo đức
Mục đích quan trọng nhất của GDĐĐ là tạo lập được những thói quen về
hành vi đạo đức đúng đắn. Mục tiêu GDĐĐ học sinh ở trường THPT là:
+ Trang bị cho học sinh những kiến thức cần thiết về chính trị, tư tưởng,
pháp luật, văn hoá xã hội
17
+ Hình thành ở mỗi học sinh thái độ và hành vi đạo đức đúng đắn với
bản thân, với mọi người. Dẫn dắt học sinh nắm được các chuẩn mực đạo đức
mà xã hội yêu cầu.
+ Rèn luyện kỹ năng sống, kỹ năng ứng xử văn hoá để thói quen tự giác
thực hiện các chuẩn mực đạo đức, thói quen sống, làm việc theo hiến pháp và
pháp luật trong mỗi học sinh.
+ Phát triển nhu cầu đạo đức cá nhân theo định hướng giá trị mang đặc
thù của dân tộc và thời đại. Giáo dục lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội
(CNXH), yêu lao động và người lao động. Giáo dục lòng yêu khoa học và
những tiến bộ của nhân loại, đồng thời biết phát huy truyền thống tốt đẹp của
dân tộc Việt Nam.
+ Hình thành bản lĩnh của con người Việt Nam XHCN.
1.3.2. Ý nghĩa của giáo dục đạo đức
Từ xưa đến nay, GDĐĐ không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với sự hình
thành và phát triển nhân cách của mỗi cá nhân mà còn có ý nghĩa to lớn đối
với gia đình và xã hội.
Khổng Tử (551-479TCN) đã nói: “Viên ngọc không mài dũa thì
không thành đồ dùng được. Con người không được học thì không biết gì về
đạo lý” [Trích: 19].
Bác Hồ kính yêu cũng đã nói:
“Hiền dữ phải đâu là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên” [19]
Với ba lực lượng giáo dục: Gia đình - nhà trường - xã hội tác động vào
quá trình hình thành và phát triển nhân cách của con người. Giáo dục gia đình
được tiến hành sớm nhất, ngay từ khi đứa trẻ cất tiếng khóc chào đời tạo nên
những phẩm chất nhân cách đầu tiên rất quan trọng làm cơ sở, nền tảng cho
giáo dục nhà trường. Giáo dục xã hội thông qua các tổ chức đoàn thể, các tổ
chức nhà nước với thể chế chính trị, pháp luật, văn hoá, đạo đức góp phần
phát triển toàn diện nhân cách con người. Song, giáo dục nhà trường có vai
18
trò rất quan trọng trong sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ. Nhà
trường với mục tiêu, nội dung, hình thức tổ chức, phương pháp giáo dục và
nhất là có đội ngũ các nhà sư phạm chuyên nghiệp sẽ tổ chức, điều khiển,
giáo dục học sinh theo một chương trình nhất định đáp ứng với yêu cầu về
đạo đức, về nhân cách mà xã hội yêu cầu.
Giáo dục đạo đức có sức mạnh cải biến những nét tính cách, hành vi
phẩm chất lệch lạc không phù hợp với yêu cầu, chuẩn mực đạo đức xã hội.
GDĐĐ là những tác động tự giác, có điều khiển, có thể mang lại những tiến
bộ mà các yếu tố di truyền bẩm sinh hoặc môi trường, hoàn cảnh không thể
tạo ra do tác động tự phát. GDĐĐ có tầm quan trọng đặc biệt đối với những
người bị khiếm khuyết một phần chức năng do yếu tố khuyết tật, tai nạn, bẩm
sinh, di truyền. GDĐĐ còn tác động điều khiển, điều chỉnh những hành vi đạo
đức tốt, phù hợp chuẩn mực đạo đức của xã hội đồng thời hạn chế, triệt tiêu
những hành vi đạo đức không phù hợp chuẩn mực đạo đức của xã hội.
1.3.3. Nhiệm vụ của giáo dục đạo đức
Giáo dục đạo đức trong nhà trường có các nhiệm vụ cơ bản:
+ Giáo dục ý thức đạo đức: Là cung cấp cho học sinh những kiến thức và
tri thức cơ bản về các phẩm chất, chuẩn mực đạo đức, trên cơ sở đó hình
thành niềm tin đạo đức.
+ Giáo dục tình cảm đạo đức: là khơi dậy cho học sinh những rung động,
cảm xúc đối với hiện thực xung quanh; biết yêu, ghét rõ ràng và có thái độ
đúng đắn với các hành vi đạo đức của mọi người.
+ Giáo dục thói quen đạo đức: là tổ chức, rèn luyện học sinh những thói
quen về hành vi đạo đức thông qua các hoạt động giáo dục được lặp đi lặp lại
nhiều lần trong quá trình giáo dục ở gia đình, nhà trường và xã hội.
1.3.4. Nội dung của giáo dục đạo đức
Nội dung GDĐĐ trước hết phải phù hợp với yêu cầu của công cuộc xây
dựng và phát triển đất nước, phù hợp với mục tiêu giáo dục. Vì vậy nội dung
GDĐĐ cho học sinh trong giai đoạn hiện nay bao gồm các vấn đề cơ bản sau:
19
+ Giáo dục chính trị, tư tưởng đạo đức: Giáo dục thế giới quan khoa học,
Giáo dục lòng yêu nước, ý thức thực hiện đường lối chủ trương của Đảng,
pháp luật của nhà nước. Giáo dục lòng yêu thương, nhân ái và hành vi ứng xử
có văn hoá. Giáo dục lòng tự hào dân tộc, niềm tin vào chế độ XHCN, hoài
bào lập thân lập nghiệp vì hạnh phúc của bản thân và đất nước.
+ Giáo dục pháp luật: Giáo dục ý thức sống và làm việc theo hiến pháp
và pháp luật. Trước hết là giáo dục việc thực hiện nội qui qui định của nhà
trường, giáo dục việc chấp hành các qui định của địa phương nơi cư trú.
+ Giáo dục đạo đức trong các mối quan hệ XH: Đó là các mối quan hệ
của cá nhân với cộng đồng, quan hệ cá nhân với lao động. Giáo dục các phẩm
chất cá nhân: Tính thật thà, khiêm tốn, lòng tự trọng, đức tính kiên trì, dũng
cảm, lạc quan.
+ Giáo dục đạo đức gia đình: Thái độ kính trọng lễ phép với ông bà cha
mẹ và người lớn tuổi. Tinh thần đoàn kết, cảm thông, nhường nhịn, vị tha,
quan tâm giúp đỡ mọi người. Giáo dục ý thức trách nhiệm của bản thân với
gia đình, với người thân
+ Giáo dục tình bạn: Tình bạn chân chính phải được xây dựng trên nền
của đạo đức chân chính. Trong nhà trường phải giúp các em tránh ngộ nhận
về tình bạn, biến thành bè phái, nhóm bạn xấu, bao che khuyết điểm cho nhau
+ Giáo dục giá trị sống và kỹ năng sống: Giáo dục cho học sinh nhận
biết các giá trị như: Giá trị truyền thống, Giá trị toàn cầu.; giáo dục kỹ năng
sống như: kỹ năng nhận biết và sống với chính mình; kỹ năng nhận biết và
sống với người khác; kỹ năng ra quyết định
1.3.5. Con đường giáo dục đạo đức
Giáo dục đạo đức được tiến hành thông qua nhiều con đường giáo dục
khác nhau:
Thứ nhất: Giáo dục trong nhà trường có vai trò chủ đạo trong việc hình
thành nhân cách. Giáo dục đạo đức trong nhà trường được thực hiện theo hai
con đường cơ bản
20
Thông qua hoạt động dạy học, dạy chữ để dạy người. Các môn khoa học
xã hội và nhân văn có tiềm năng to lớn trong việc giáo dục các giá trị, chuẩn
mực đạo đức và cách ứng xử hành vi đạo đức trong xã hội. Các môn khoa học
tự nhiên có tác dụng giúp người học hình thành thế giới quan duy vật biện
chứng... Các môn văn học, thể dục thể thao giúp người học phát triển những
cảm xúc tâm hồn, năng lực thẩm mỹ, rèn luyện sức khoẻ và ý chí...
Thông qua chương trình hoạt động ngoài giờ lên lớp như: ngoại khoá,
hoạt động đoàn thể, hoạt động từ thiện nhân đạo... để giáo dục chính trị tư
tưởng, đạo đức lối sống, giáo dục pháp luậtcho học sinh.
Thứ hai: Giáo dục gia đình có vai trò nền móng cho giáo dục đạo đức.
Có thể nói: Gia đình là trường học đầu tiên của trẻ, ông bà cha mẹ là
những người thầy giáo đầu tiên đối với mỗi con người. Tính cách, phẩm chất,
thói quen hành vi đạo đức của trẻ bắt đầu từ chiếc nôi đầu tiên là gia đình. Vì
vậy giáo dục gia đình là rất quan trọng.
Thứ ba: Giáo dục xã hội gồm các lực lượng nơi cư trú, chính quyền, tổ
chức xã hội nghề nghiệp, các cơ quan ban ngành đoàn thể Thanh niên, phụ
nữ, công an), đều có vai trò trong việc giáo dục đạo đức học sinh.
Thứ tư: Con đường tự giáo dục, thông qua việc tự học, tự rèn mà hình
thành những phẩm chất và thói quen hành vi đạo đức của học sinh. Tự giáo
dục sẽ giúp cho học sinh nhanh chóng hoàn thiện nhân cách bản thân. Tác giả
Phạm Minh Hạc đã chỉ rõ “ Học sinh từ chỗ là đối tượng của giáo dục dần
dần trở thành vừa là đối tượng giáo dục, vừa là chủ thể giáo dục”[12].
1.3.6. Phương pháp giáo dục đạo đức
Phương pháp GDĐĐ là cách thức tác động của các nhà giáo dục lên đối
tượng giáo dục để hình thành cho họ những phẩm chất cần thiết. Về cơ bản
phương pháp giáo dục được chia thành 3 nhóm chính:
+ Nhóm phương pháp thuyết phục:
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 05050002759_5724_2006286.pdf