Luận văn Văn hóa của người Tày ở huyện Định Hóa tỉnh Thái Nguyên

MỞ ĐẦU. 1

1. Lý do chọn đề tài. 1

2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu. 2

3. Đối tượng, phạm vi và mục đích nghiên cứu . 4

4. Phương pháp nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn . 5

5. Nguồn tài liệu. 5

6. Đóng góp của luận văn . 6

7. Bố cục luận văn. 6

Chương 1: VÀI NÉT VỀ HUYỆN ĐỊNH HÓA TỈNH THÁI NGUYÊN . 7

1.1. Lịch sử hành chính huyện Định Hóa. 7

1.2. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên . 8

1.3. Các thành phần dân tộc trong huyện . 9

1.4. Vài nét về người Tày ở huyện Định Hóa . 13

1.4.1. Dân số, nguồn gốc. 14

1.4.2. Tình hình kinh tế . 14

1.4.3. Đời sống văn hóa, xã hội. 17

Tiểu kết chương 1. 26

Chương 2: VĂN HÓA VẬT CHẤT CỦA NGưỜI TÀY ĐỊNH HÓA. 27

2.1. Ăn, uống. 27

2.1.1. Ăn . 27

2.1.2. Uống . 31

2.1.3. Ứng xử trong ăn uống . 32

2.2. Nhà cửa . 34

2.2.1. Nhà ở . 34

2.2.2. Kiến trúc công cộng . 43

pdf134 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 05/03/2022 | Lượt xem: 406 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Văn hóa của người Tày ở huyện Định Hóa tỉnh Thái Nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thời gian 2 - 3 năm đó, người con gái phải lo trồng bông, dệt vải làm chăn, màn, quần áo, làm gối cho vợ chồng và bố mẹ chồng, mua sắm các đồ dùng để phục vụ cho cuộc sống gia đình sau này. Nhìn bề ngoài, người ta tưởng đây là của hồi môn mà cha mẹ cho con gái mang về nhà chồng nhưng thực chất đều do nhà trai bỏ tiền ra mua thông qua việc nhờ nhà gái mua sắm giúp. Hôn nhân mua bán mang đến nỗi buồn đau cho nhiều chàng trai, cô gái. Nếu không sắm đủ thì hôn nhân không thành hoặc nếu có đủ thì sau khi cưới họ phải nai lưng làm lụng vất vả để trả nợ. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 49 Ngày nay, việc thách cưới cao trong hôn nhân của người Tày ở Định Hóa tuy đã giảm nhưng chưa đáng kể. Người Tày có tục lấy rể tạm và rể đời. Những trường hợp cưới rể tạm là gia đình nhà gái neo đơn, thiếu lao động, cha mạ già yếu trong khi có con trai nhưng còn nhỏ, chưa lo liệu được công việc gia đình. Chàng rể thường ở nhà vợ cho đến khi em trai vợ trưởng thành, có thể sống tự lập được lúc đó rể có thể đón vợ trở về bên nhà bố mẹ mình. Những gia đình hiếm con hoặc chỉ có con gái thường lấy rể đời. Rể đời là do cha mẹ bên nhà gái chủ động tìm cho con gái mình. Những chàng trai được chọn và đồng ý đi làm rể đời thường là nhà có nhiều con trai hoặc nhà nghèo. Trong trường hợp này nhà gái sẽ lo liệu toàn bộ lễ cưới. Con rể đời được coi như con đẻ, được thừa kế tài sản nhưng đời con phải mang họ mẹ nên thường chỉ có chàng trai con nhà nghèo không đủ khả năng cưới vợ mới đi ở rể đời. 3.1.1.1. Tuổi và tiêu chuẩn chọn dâu, chọn rể Về lứa tuổi hôn nhân, trước đây nạn tảo hôn còn rất phổ biến, tuổi con gái thường 14, 15 tuổi; tuổi con trai thường là 16, 17 tuổi. Ngày nay đã có luật hôn nhân của Nhà nước nên tệ nạn tảo hôn trong xã hội người Tày đã giảm. Tuổi con gái trung bình từ 18, 19 tuổi trở lên; con trai từ 20, 21 tuổi trở lên. Đó là đối với các trường hợp học hành không đến nơi đến chốn hoặc sau khi học xong phổ thông không thi đỗ trường nào nên kết hôn sớm. Tiêu chuẩn để chọn một người con dâu vừa ý của các bậc cha mẹ là người con gái đó phải biết đối nhân xử thế, lễ phép với bố mẹ, anh em họ hàng, làng xóm, cần cù, chăm chỉ, thành thạo các công việc nội trợ, đặc biệt là phải biết dệt vải, kéo sợi. Tiêu chuẩn chọn con rể trong xã hội người Tày là khỏe mạnh, cần cù, cày bừa thành thạo. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 50 Một điều kiện hết sức quan trọng trong việc chọn dâu, chọn rể của đồng bào Tày ở Định Hoá đó là con dâu, con rể hay gia đình, họ hàng của dâu, rể phải không bị mang tiếng là có ma gà. 3.1.1.2. Lễ cưới Lễ cưới xin của người Tày ở huyện Định Hóa cũng như của người Tày nói chung trải qua bốn bước, đó là: Lễ dạm hỏi (ướm hỏi), Lễ ăn hỏi, Lễ cưới và Lễ lại mặt. Lễ dạm hỏi (ướm hỏi) Đôi trai gái khi đã quen biết nhau và thấy ưng nhau, chàng thanh niên về xin phép bố mẹ tạo điều kiện thực hiện các nghi lễ để tiến tới hôn nhân. Nhà trai nhờ một người quen biết cả hai gia đình ướm hỏi trước, nếu nhà gái không phản đối gì thì họ chọn ngày tốt đến thăm. Buổi dạm hỏi, nhà trai chỉ mang một chai rượu và đôi gà đến nhà gái. Trong buổi nói chuyện, nhà trai, nhà gái đều dùng từ ngữ hình tượng, tế nhị để ướm hỏi, trả lời. Nếu nhà gái đồng ý, nhà trai sẽ xin tờ lục mệnh (trên có ghi ngày, tháng, năm sinh của cô gái) đem về nhờ thầy tử vi xem số mệnh của cô gái có hợp với chàng trai hay không. Nếu hợp nhà trai sẽ đến làm lễ ăn hỏi. Nếu không hợp cũng phải báo cho nhà gái biết. Lễ ăn hỏi Sau lễ dạm một thời gian, gia đình nhà trai nhờ một người nam giới trong họ có uy tín sang nhà gái bàn việc trăm năm của đôi trẻ. Đồ lễ do hai cô gái trẻ gánh theo gồm có một đôi gà sống thiến, hai chai rượu ngon, bốn cân gạo nếp. Tại lễ này, nhà trai xin bản lục mệnh của cô gái được ghi chép cẩn thận trên giấy hồng điều. Khi bản lục mệnh của cô gái đã trao chính thức cho nhà trai thì coi như hai bên đã công nhận sự đính hôn giữa đôi trẻ. Từ lễ ăn hỏi tới lễ cưới của người Tày, thường kéo dài từ 2 đến 3 năm. Trong suốt thời gian đó, vào các dịp lễ tết, nhà trai phải có sêu tết nhà gái - Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 51 gọi là đi tết (chủ yếu là dịp tháng giêng và tháng bảy) như Tết Nguyên Đán, đồ lễ trong dịp này thường gồm: 2 con gà thiến, hai bánh chưng, 2 bánh khảo, 2 gói chè. Lễ cưới Khi nhà trai đã định được ngày cưới sẽ nhờ đại diện đến nhà gái cùng bàn bạc về thời gian tổ chức đám cưới cũng như lễ vật mà nhà trai sẽ mang đến nhà gái trong lễ cưới. Sính lễ nhà trai mang đến nhà gái, ngoài hàng tạ thịt lợn, 30 - 40 lít rượu, 20 kg gạo nếp để nhà gái làm cỗ mời khách và tiền thách cưới ra còn phải có 1.000.000đ tiền mặt gói trong giấy đỏ, đặt lên bàn thờ tổ tiên. Trước ngày cưới một hôm, nhà trai phải nộp đồ sính lễ như đã thỏa thuận với nhà gái. Ngoài những lễ vật như đã thỏa thuận, bản thân cô dâu, chú rể phải chuẩn bị quà biếu cho gia đình hai bên. Cô dâu chuẩn bị hai gối để tặng cho bố mẹ chồng, ông bà, anh chồng, vài chục chiếc khăn mặt cho các cô bác bên chồng. Còn chàng rể phải chuẩn bị thêm một mảnh vải để tặng mẹ vợ để trả công mẹ vợ đã nuôi dưỡng con gái khi còn nhỏ và để sau này mẹ vợ dùng khâu địu cho đứa con đầu lòng của đôi vợ chồng trẻ. Nếu cô dâu có chị chưa lập gia đình thì chú rể còn phải chuẩn bị một phong bao tiền hoặc một vảnh vải đỏ gọi là vải “quá hồng” với ý là xin phép cho em lập gia thất trước. Đoàn đón dâu gồm chú rể, một phù rể, hai quan làng, hai bà đón dâu cùng hai người gánh đồ lễ. Đoàn đón dâu của người Tày ở Định Hóa có điểm khác với người Tày ở những nơi khác như: người Tày ở Chợ Đồn (Bắc Cạn) đoàn đón dâu gồm có: Quan làng cùng chú rể, một phù rể chưa vợ và hai thiếu nữ mang lễ vật sang nhà gái Đoàn nhà trai đến nhà gái vào lúc sáng sớm. Khi đoàn nhà trai đến nhà gái phải trải qua rất nhiều thử thách. Để vượt qua được đòi hỏi nhà trai phải có tài ứng đối bằng các câu hát. Thử thách đầu tiên của nhà trai là khi đến cổng bị nhà gái đóng không cho vào, lại còn vờ hỏi: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 52 Xin trình đến khách lạ khác thường Đi đâu mà lạc đường qua đây Gái trai đều thanh tân thay thảy Người người mặt xinh đẹp trắng ngần Tôi chặn đường giữ phép nhà quan Người ngay được vào làng vào bản Người gian là phải lìa chốn đây Khách này là người ngay người giở Tôi xin hỏi cho rõ ngọn ngành. Muốn nhà gái mở cổng cho vào, Quan làng phải cất lên tiếng hát: Ngày này ngày đại lễ đón dâu Chúng tôi đưa rể về lễ tổ Lễ vật có nhiều gánh nhiều gồng Con rể gọi đắp ơn cha mẹ Được ơn các nàng mở cửa chọ Cổng mở nhưng lối vào bị chắn bởi một dải lụa ngũ sắc. Quan làng lại hát: Xin trình đến các nàng nhà sang Đi đến đây đường trường mệt mỏi Thấy có dải lụa đào chắn ngang Thấy có dải lụa loan ngũ sắc Cấm vào nhà những khách không quen. Tiếng hát vừa dứt, dải lụa được cất đi mở đường cho nhà trai đến cầu thang nhà sàn. Theo lệ thường chân cầu thang có máng nước rửa chân nhưng hôm nay không có. Mấy cô gái bưng những khay rượu đến mời khách rửa Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 53 chân. Bài hát Lẩu dào kha (rượu rửa chân) được ra đời, nói lên điều hay lẽ phải, giá trị quý báu của những giọt rượu, không thể lấy rượu thay nước rửa chân, làm như vậy là trái với lẽ thường, coi thường công lao động và vật phẩm quý là lúa gạo: Lại có rượu rửa chân chúng tôi Nghĩ mà thất lễ với trời đất. Sau khi hai bên hát đối xong, nhà gái sẽ mở cửa mời nhà trai lên nhà. Vượt qua ngần nấy "thử thách" của nhà gái, nhà trai những tưởng xong chuyện, được ngồi xuống giường nghỉ ngơi đàm đạo. Nào ngờ giường không có chiếu trong khi đó mấy cô chủ lịch sự mời chào. Quan làng lại hát bài “xin trải chiếu” nhà gái mới chịu mang chiếu đến trải vào giường nhưng cố tình trải ngược chiếu. Cả đoàn đón dâu vẫn kiên trì đứng chờ. Quan làng hát bài "trải lại chiếu” ý nói mọi vật tồn tại trong tự nhiên và trong cuộc sống đều tuân theo quy luật phát triển tự nhiên của nó, lẽ nào nhà gái làm trái quy luật ấy. Nhà gái sẽ trải lại chiếu và hát bài mời nhà trai ngồi. Nhà trai ngồi và hát bài cảm ơn. Sau đó các cô gái bên nhà gái sẽ mang trầu, nước ra mời và hát bài mời trầu, mời nước. Nhà trai sau khi uống nước cũng hát bài cảm ơn, khen ngợi các cô gái khéo tay pha chè thơm ngon, đón tiếp chu đáo. Sau khi uống nước, quan làng dẫn chú rể đến trước mẹ vợ làm lễ dâng tấm vải “ướt khô”. Dâng tấm vải “ướt khô” là một nghi lễ thể hiện lòng biết ơn của con rể đối với cha mẹ của cô dâu. Tấm vải được dệt tay bằng sợi bông khổ rộng khoảng 40 cm, dài khoảng 4 - 5m, nhuộm màu hồng một nửa hay 1/3 tấm vải, ước lệ đó là phần vải ướt, còn lại là phần vải khô. Lệ ấy xuất hiện từ quan niệm cũng như nhận thức công lao to lớn của bà mẹ nuôi con gái từ lúc còn đỏ hỏn đến khi trưởng thành nay đi lấy chồng. Đây là một thuần phong mỹ tục rất đẹp, chứa đựng ý nghĩa sâu sắc về lòng hiếu thảo của con gái đối với Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 54 cha mẹ. Vị quan làng nhà trai nghiêm trang hát bài dâng tấm vải “ướt khô”. Chú rể trịnh trọng hai tay dâng tấm vải cho mẹ vợ. Tiếp đó, vị quan làng dẫn chú rể đến bàn thờ tổ tiên của nhà gái, gánh lễ vật của nhà trai được đặt trước bàn thờ làm lễ trình tổ tiên. Quan làng sẽ hát bài lễ tổ. Quan làng dâng lễ vật và thắp hương, đèn lên bàn thờ khấn tổ tiên nhà gái với nội dung xin phép đón dâu về nhà chồng và thông báo giờ rước dâu. Lễ trình tổ tiên là một nghi lễ bắt buộc trong đám cưới của người Tày ở huyện Định Hóa. Sau đó một người trong họ đại diện nhà gái giới thiệu từng người để chú rể mời nước, thuốc và biết cách xưng hô. Khi đã đến giờ đón dâu, quan làng hát bài cảm ơn nhà gái đã đón tiếp chu đáo và xin phép đón dâu về nhà chồng. Sau khi cô dâu bái lạy tổ tiên, ông trưởng họ lấy nón che ma cho cô dâu về nhà chồng. Cô dâu cầm nón, vừa đi ra cửa vừa khóc để tỏ lòng báo hiếu công ơn nuôi dạy của cha mẹ. Đoàn đưa dâu gồm một phù dâu, hai pả mẻ, hai ông tà thống và một số người gánh đồ của cô dâu. Nếu đoàn đón dâu khi đến nhà trai, mà chưa đến giờ tốt thì phải đợi ở ngoài. Trên đường đi nếu gặp mưa, thì dựng lều trú tạm, tuyệt đối không được vào nhà người khác. Trên đường về nhà trai nếu gặp đám cưới khác đi ngược chiều, thì hai cô dâu mời nhau trầu cau, còn những người khác thì mời nhau thuốc lá. Nếu gặp cầu, sông, suối cô dâu thường dừng lại để ông đón trả "tiền đò" cho bà đưa, hoặc cắm ở đó một bông hồng và đặt tiền bên cạnh. Tại nhà trai, cô dâu đến quỳ trước bàn thờ tổ tiên vái 3 lạy để xin được nhận làm dâu con. Tà thống hát bài xin nộp dâu với nội dung cô dâu còn nhiều điều dại khờ, mong nhận được sự yêu thương, chỉ bảo của nhà chồng để nên người và quan làng hát bài nhận dâu. Sau đó tà thống hát bài nộp chăn gối với lời lẽ hết sức khiêm nhường nói về sự chân thành của cô dâu đối với nhà Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 55 chồng thông qua các của hồi môn tự làm nhưng không được khéo. Quan làng hát bài nhận lễ vật và ca ngợi cô dâu đã nhận được sự chỉ bảo chu đáo của gia đình mà làm được các sản phẩm đẹp. Cô dâu tặng bố mẹ chồng hai chiếc gối làm bằng vải tự dệt. Anh em họ hàng và bạn thân của chú rể được cô dâu biếu mỗi người một chiếc khăn mặt làm kỷ niệm. Sau khi nhận đồ vật, cô dâu sẽ vào buồng ăn cơm cùng phù dâu và hai pả mẻ. Suốt đêm đó, dân làng đến góp vui cùng gia chủ, chúc cho đôi vợ chồng trẻ được hạnh phúc trọn vẹn, hai họ hát đối đáp. Sáng hôm sau, nhà gái xin phép ra về. Trước khi về tà thống hát bài cảm ơn và xin phép ra về. Quan làng hát chúc nhà gái đi đường may mắn. * Lễ lại mặt Cũng như dân tộc Kinh và dân tộc anh em khác, sau khi cưới ba ngày thì người Tày làm lễ lại mặt. Ba ngày sau, đôi vợ chồng trẻ mang lễ vật đến lại mặt nhà gái. Lễ vật mang theo gồm đôi gà, hai lít rượu. Tới nhà vợ, chú rể phải tự tay nấu mấy mâm cơm cảm ơn họ hàng nhà gái. Kết thúc buổi lễ lại mặt, quay trở về nhà trai, đôi vợ chồng trẻ mới được động phòng và bắt đầu cuộc sống lứa đôi. Sau đám cưới, người vợ trẻ tự dệt, tự cắt, tự khâu tặng chồng một bộ quần áo chàm để tỏ rõ sự khéo léo, yêu thương chồng. Tóm lại, đám cưới người Tày ở Định Hóa với những nghi lễ chặt chẽ thông qua làn điệu quan làng để đối đáp, giao tiếp là một truyền thống đẹp, giàu tính nhân văn. Ẩn sâu trong những lời lẽ bình dị, khiêm nhường là những ý tứ sâu xa, sắc xảo, chứa đựng tính giáo dục sâu sắc. Thông qua làn điệu quan làng, thanh niên nam nữ dân tộc này một lần nữa được thấm sâu vào mình ý thức cộng đồng, hiểu được trách nhiệm đối với gia đình và khát vọng vươn lên, sống tốt hơn, đẹp hơn trong cuộc sống. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 56 3.1.2. Sinh đẻ Khi phụ nữ mang thai, với mong muốn đứa con khỏe mạnh, họ phải kiêng nhiều thứ. Trước khi ăn cơm, người phụ nữ phải uống một chén nước để sau này dễ sinh. Người phụ nữ khi mang thai kiêng không bước qua dây buộc ngựa vì sợ chửa 12 tháng như ngựa, không đun củi ngược vì sợ đẻ ngược. Trong quá trình mang thai, người phụ nữ kiêng không làm các công việc nặng nhọc nhưng vẫn phải tham gia lao động sản xuất và làm các việc trong gia đình. Người phụ nữ đẻ được chăm sóc chu đáo và phải kiêng cữ trong thời gian 40 ngày. Trong suốt tháng ở cữ, người mẹ phải ăn cơm nóng, thịt gà xào gừng, nghệ, rượu. Người ta còn bồi dưỡng sức khỏe cho người mẹ bằng chân giò hầm với mít non, đu đủ, rượu nếp để có nhiều sữa cho con bú Tuyệt đối không ăn cổ, cánh, lòng, dọc sống lưng của gà, lợn. Riêng rau xanh, chỉ được ăn rau ngót, su hào, khoai tây, bắp cải xào thịt. Còn các loại rau khác kiêng không ăn vì nhiều lý do, chẳng hạn, ăn rau cải sẽ bi ho, ăn rau bí sẽ làm cho cả mẹ lẫn con bị ngứa Trong suốt thời gian ở cữ, sản phụ chỉ được ở trong buồng của mình, kiêng tắm gội, không đến chỗ bàn thờ tổ tiên, chỗ nấu rượu. Sản phụ cũng không được lui tới bất cứ một nhà người khác nào vì người ta cho rằng thân thể sản phụ không sạch sẽ sẽ đem rủi ro tới gia đình họ. Đây là thể hiện lối sống văn minh lịch sự của người sản phụ trong quan hệ hàng xóm láng giềng. Mặt khác sức khỏe của sản phụ đang ở thời kỳ bình phục dần sau khi sinh đẻ, việc hạn chế đi lại là có lợi cho sức khỏe của bà mẹ sau này. Khi nhà có người mới đẻ, người ta treo ở trước cửa một cành lá xanh báo hiệu cho người ngoài biết để khỏi vào nhà. Khi đứa trẻ vừa được sinh ra người ta tắm cho trẻ bằng nước lá thơm như lá đào, lá bưởi Ngay sau khi người phụ nữ sinh, nhờ một người khỏe mạnh, tháo vát, làm ăn giỏi lên nhà thăm hỏi đứa trẻ với mong muốn đứa trẻ sau này cũng mạnh khỏe, giỏi giang như vậy. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 57 Sinh được ba ngày, gia đình đi mời thầy cúng tới làm lễ nhằm xua đuổi tà ma xâm nhập, rửa sạch nhà cửa sau khi đẻ và làm lễ cầu mong sức khỏe cho cháu nhỏ. Cũng vào hôm đó người Tày làm lễ dựng bàn thờ mụ cho đứa trẻ. Thông lệ, khi con dâu sinh con đầu lòng, bên ngoại mang thịt lợn, gà, gạo nếp, ống hương, hao giấy sang làm bàn thờ mụ cho cháu. Khi trẻ được một tháng tuổi, người Tày ở Định Hóa có tục làm lễ đầy tháng cho trẻ. Đây là nghi lễ không thể bỏ qua đối với bất kỳ một đứa trẻ nào khi được sinh ra. Ngày lễ đầy tháng với ý nghĩa là mừng cháu khỏe mạnh, hay ăn chóng lớn, mừng phúc đức của gia đình đồng thời cũng có ý nghĩa báo với Bà Mụ biết là đứa con của Bà Mụ ban cho đã ra đời, ghi công ơn của Bà Mụ đã ban phúc và cũng xin Bà Mụ tiếp tục phù hộ, che chở cho đứa trẻ trưởng thành. Trong lễ đầy tháng đồng bào Tày phải mời thầy đến để cầu an, cầu phúc và đặt tên cho đứa trẻ. Khi thầy làm lễ xong sẽ buộc một sợi chỉ ngũ sắc vào tay và một túi vải nhỏ trong có đựng lá bùa (bản mệnh) đeo vào cổ để bảo vệ đứa trẻ khỏi tà ma. Trong ngày này, ông bà nội sẽ đan tặng cháu một chiếc nôi đan bằng tre, bên bà ngoại khâu tặng cháu chiếc địu từ tấm vải mà chàng rể tặng ngày trước. Chiếc địu đó được dùng lâu dài cho những đúa con sau này, không được cho người khác mượn. Nôi và địu làm xong trước, khi cho đứa trẻ xuống nôi nằm, người ta nín thở đặt vào nôi một cái chổi quét nhà để trẻ không bị giật mình. Những người khách được mời có các tặng phẩm cho đứa trẻ như: quần áo, tã lót, vòng tay, vòng cổ bằng bạc, mũ khăn cho đứa trẻ. Người Tày ở đây có tục, khi những người đến dự lễ nếu thấy đứa trẻ bụ bẫm thì không được khen vì người Tày sợ ma dữ sẽ bắt hồn đứa trẻ. Khi bữa cơm trưa kết thúc, người ta chọn một người nhanh nhẹn, phúc hậu hay một cháu nhỏ khỏe khoắn, lanh lợi địu cháu bé đi khỏi nhà một quãng và mang theo túi sách, bút, xâu bánh đi phát cho trẻ con trong bản tỏ ý hòa Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 58 nhập và sau này đứa trẻ cũng sẽ ham học và hiếu thảo với mọi người. Hôm đầy tháng người ta cắt tóc cho trẻ rồi gói lại cẩn thận không được vứt lung tung vì sợ người khác yểm bùa, trên đỉnh thóp phải để lại một chỏm tóc bởi theo quan niệm của đồng bào Tày thì đây là nơi trú ngụ của hồn vía đứa trẻ. Sau 40 ngày, người mẹ hết thời gian kiêng khem và bắt đầu đi làm bình thường. Nếu cho trẻ đi chơi xa như về thăm ông bà ngoại người ta phải xâu kim, cài kim băng vào mũ đứa trẻ, bôi nhọ nồi vào trán, thậm chí còn thắp hương báo tổ tiên phù hộ cho đứa trẻ. Trong việc nuôi dạy con cái, người Tày rất ít khi mắng chửi con cái mà chỉ dùng lời nói nhẹ nhàng để khuyên bảo con mỗi khi nó mắc khuyết điểm. Trong việc chăm sóc, nuôi dạy con cái người Tày không phân biệt đối xử dù trai hay gái, con cả hay con thứ đều được chăm sóc và đối xử như nhau. Thời kỳ đầu, đứa trẻ chủ yếu được bú sữa mẹ, sau khoảng ba bốn tháng trẻ được bón thêm nước cơm, cháo nấu với rau non và xương hầm. Người Tày có tục làm lễ sinh nhật cho trẻ khi trẻ được tròn một năm tuổi. Trong lễ đầy năm, gia đình sửa soạn mâm cúng thường đồng thời mua sách, mua bút, gương, lược, que thêu đặt trước mặt đứa trẻ, nếu đứa trẻ cầm vào thứ gì trước có thể tiên đoán được tính cách của đứa trẻ sau này. Trước đây, trong quá trình nuôi dưỡng, nếu trẻ bị ốm đau việc đầu tiên là mời thầy cúng giải bệnh. Bên cạnh đó người Tày ở Định Hóa cũng có nhiều kinh nghiệm dùng thuốc nam chữa bệnh. Ngày nay, phần lớn khi trẻ bị ốm đều được đưa đến bệnh viện, trạm y tế. Khi trẻ đã biết nhận thức, người Tày thường dạy con cái cách ăn nói, ứng xử với mọi người theo truyền thống của dân tộc mình. Khi sắp đến tuổi trưởng thành, đối với trẻ em gái, được mẹ hướng dẫn cách ăn mặc, ứng xử, các công việc nội trợ Và đặc biệt, các em còn được mẹ hướng dẫn xe bông dệt vải để chuẩn bị tư trang khi lập gia đình. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 59 Tóm lại, tập tục sinh đẻ và nuôi dạy con cái của đồng bào Tày có nhiều sắc thái riêng mang đậm đặc trưng văn hóa tộc người. Tập tục đó của người Tày ở huyện Định Hóa phản ánh truyền thống tốt đẹp của người Tày nơi đây trong mối quan hệ ứng xử giữa con người với con người, giữa con người với thiên nhiên. 3.1.3. Các nghi lễ liên quan đến làm nhà mới * Chọn đất làm nhà Để dựng ngôi nhà mới, người Tày ở Định Hóa bao giờ cũng chọn đất để làm nhà trước tiên. Đây là việc mà người Tày rất coi trọng. Theo quan niệm của người Tày, đất nào cũng có thổ thần (thổ tỳ) cai quản, đồng bào nơi đây thường có câu: “Làm được ăn nhờ mồ mả, thong thả nhờ đất nhà”. Cách thức chọn đất làm nhà của người Tày được trải qua nhiều thủ tục, nghi thức và được tiến hành rất cẩn thận, chu đáo. Vì người Tày cho rằng: ngôi nhà có được vững chãi, gia đình có được khỏe mạnh, bình yên, ăn nên làm ra hay không đều nhờ sự phù hộ, che chở của ma thổ tỳ và ma tổ tiên. Công việc đầu tiên là phải tiến hành xem tuổi của chủ nhà, đồng bào thường xem tuổi của đàn ông, xem năm ấy có được tuổi để dựng nhà hay không? Nếu năm ấy hợp tuổi để làm nhà, người chủ tiến hành chọn đất để dựng nhà. Khi đi đến nhà thầy để xem đất dựng nhà, người chủ phải mang theo mấy nắm đất tại những nơi định dựng nhà, nếu thầy xem được nắm đất nào thì dựng nhà ở nơi đó. Sau khi đã chọn được mảnh đất tốt để dựng nhà, người chủ nhà mời thầy cúng đến để chọn hướng làm nhà. Nhà của người Tày ở Định Hóa thường theo hướng nam (tùy thuộc vào vị trí và thế đất của từng nhà), nhưng hướng của ngôi nhà người Tày thường nhìn ra phía cánh đồng hoặc thung lũng tạo nên được không gian thoáng đãng, không khí trong lành. Và „„nếu quanh có nhiều đồi núi cao, thấp trông như rồng cuốn hoặc có dải núi đồi Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 60 võng xuống là rất tốt bởi người ta coi đó là nơi đựng của cải gia chủ dựng nhà, theo hướng ấy sẽ làm ăn phát đạt. Trường hợp xung quanh có sông suối bao bọc hay có ngọn núi, triền đồi mà phía trước giống hình người an tọa nhìn thẳng vào nhà cũng là hướng tốt, sinh sống ở đó sẽ bình yên mãi mãi, con cháu đông đúc, chăn nuôi phát triển ‟‟ [57, tr. 52]. Công việc tiếp theo là san nền và dựng nhà. Trước khi tiến hành san nền để dựng nhà, người Tày tiến hành làm lễ “động thổ” để cầu mong cho công việc dựng nhà được an toàn và thuận lợi. Người Tày thường không thuê các cánh thợ về làm mà chủ nhà thường nhờ anh em, họ hàng, bạn bè, làng xóm đến giúp rất đông. * Lễ mừng nhà mới Dù nhà có của hay nhà thiếu thốn không ai bỏ qua được bữa ăn mừng nhà mới, ngày ăn mừng nhà mới cũng là ngày làm lễ dọn về nhà mới ở. Bữa cơm rượu ăn mừng nhà mới rất thịnh soạn và thường chỉ ăn một bữa. Ngoài những người có công giúp dựng nhà - trong bữa ấy cũng được gọi là khách mời dự lễ ăn mừng nhà mới - chủ nhà còn mời thêm bạn bè và người thân bên nội, ngoại. Để chuẩn bị cho lễ mừng nhà mới, chủ nhà phải mời thầy cúng xem ngày tốt đồng thời phải chuẩn bị một con lợn 50 - 60 kg, gạo nếp, gạo tẻ, rượu đủ mời khách. Trong lễ mừng nhà mới, những người khách được mời đều có những tặng phẩm để tặng cho chủ nhà như: tiền, gạo, rượu, câu đối viết trên tấm vải điều. Trong lễ này, chủ nhà sẽ mang vào nhà một số đồ vật tượng trưng như: bình vôi, cái giá trên gác bếp mà nhà nào cũng cần phải có. Sau đó chủ nhà chất một đống củi ở giữa bếp và mời 4 ông già được tín nhiệm trong thôn bản cầm 4 bó đuốc đi từ góc nhà vào châm lửa đồng thời cùng hô: “Vững như núi Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 61 đá, chắc như bàn thạch”. Theo quan niệm của đồng bào là để cầu mong gia đình được khỏe mạnh, làm ăn được thuận lợi. 3.1.4. Ma chay 3.1.4.1. Tang ma a. Một số nghi lễ tang ma Xuất phát từ quan niệm của đồng bào cho rằng linh hồn cha mẹ sau khi chết sang thế giới bên kia vẫn sinh hoạt và có những nhu cầu như người sống. Nếu không lo cho cha mẹ được mồ yên mả đẹp thì hoặc linh hồn người chết vẫn lẩn quất xung quanh người sống, quấy rối người sống, hoặc là linh hồn bị thiếu thốn ở thế giới bên kia, trở lại làm rầy rà con cháu, gây ốm đau chết chóc. Hơn nữa lo ma chay chu đáo cho cha mẹ là một hình thức báo hiếu quan trọng nhất. Do vậy mà đồng bào Tày ở Định Hóa tổ chức đám ma cho cha mẹ hết sức chu đáo và cũng hết sức phức tạp. Tuy nhiên do thời gian có hạn nên chúng tôi chỉ xin trích dẫn một số nghi lễ chính trong đám ma của người Tày như sau: * Lễ rửa mặt cho người chết Khi gia đình có người tắt thở, con cháu phải nhịn ăn để tỏ lòng đau đớn, thương tiếc với người đã khuất. Và đặc biệt, khi chưa mời được thầy Tào về làm lễ khâm niệm, nhập quan cho người chết thì con cháu tuyệt nhiên không được cất tiếng khóc. Bởi họ cho rằng khi có người thân vừa mới qua đời, hồn của người chết vẫn còn lẩn quẩn ở trong nhà, chưa muốn rời xa con cháu nên nếu con cháu mà cất tiếng khóc sẽ níu giữ hồn người chết ở lại khiến hồn đó không thể siêu thoát. Khi có người vừa tắt thở người nhà báo tin cho họ hàng biết đồng thời tắm rửa cho người chết. Tắm cho người chết phải là em trai, con trai hoặc cháu trai của người chết. Đồng bào tắm cho người mất bằng nước lá thơm (lá bưởi, hương nhu, lá cối xay, lá tre) sau đó mặc quần áo mới cho người chết. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 62 Theo tục lệ, nam mặc 7, nữ mặc 9 áo. Sau đó người ta bỏ vào miệng người chết 1 hào bạc trắng để linh hồn người chết khỏi phát ngôn bừa bãi gây tai họa cho con cháu. Sau đó người nhà để người chết nằm ở gian thờ trên chiếc chiếu lật mặt trái, đầu kê gối quay về phía bàn thờ, buông màn và đi đón thầy Tào về làm lễ khâm niệm và phát tang. Đồng thời người nhà phải chuẩn bị nhà táng cho người chết. * Lễ khâm niệm Giờ liệm phải tránh trùng với giờ sinh của con cháu trong gia đình vì sợ người chết sẽ bắt đi theo. Lễ khâm liệm do thầy Tào đảm nhiệm. Khi liệm người chết được quấn 1 - 2 tấm vải trắng tự dệt tùy theo điều kiện kinh tế gia đình. Trải ít tro bếp sạch tượng trưng cho vật thiêng bảo vệ thi hài

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_van_hoa_cua_nguoi_tay_o_huyen_dinh_hoa_tinh_thai_ng.pdf
Tài liệu liên quan