Đỉnh ở 2140 cm-1 xuất hiện rõ ràng khi nồng độ xyanua giảm xuống tới 0,01
ppm. Chúng tôi nhận định rằng, sự thay đổi hình dạng của đỉnh phổ tại dải ở
2105 cm-1 trong Hình 4.18 so với Hình 4.17 có nguyên nhân là do quá trình
xyanua hóa của bạc trên đế SERS, quá trình này xảy ra khi KCN được hòa tan
trong nước (thay vì ethanol). Sự biến đổi theo trật tự của phổ SERS của KCN
khi nồng độ của nó thay đổi như thể hiện trong Hình 4.18 có thể được giải thích
với lưu ý rằng chỉ các ion xyanua (CN)- tiếp xúc với bạc mới có khả năng tạo
phức với bạc. Ở nồng độ xyanua cao, tỷ lệ của các ion [Ag(CN)2]- tiếp xúc với
bạc thấp do đó đỉnh 2105 cm-1 của liên kết (CN)- vẫn là chính với phần chân phổ
có xu hướng kéo dài về phía bước sóng cao hơn. Tại các nồng độ của KCN thấp,
tỷ lệ các ion xyanua tiếp xúc với bạc tăng lên cùng với đó cường độ của đỉnh ở
2105 cm-1 giảm liên tục, trong khi đỉnh ở 2140 cm-1 xuất hiện và dần dần trở
thành riêng biệt như thể hiện trong Hình 4.18. Như vậy, bằng phổ SERS lần đầu
tiên chúng tôi quan sát thấy quá trình tạo phức của Ag với xyanua trong nước.
25 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 04/03/2022 | Lượt xem: 352 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Chế tạo các cấu trúc nano vàng, bạc dạng hoa, lá trên silic để sử dụng trong nhận biết một số phân tử hữu cơ bằng tán xạ raman tăng cường bề mặt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cách tiếp
cận từ dưới lên. Cũng cần lưu ý rằng, cho dù là cách tiếp cận nào cũng có thể
chế tạo được hai loại đế SERS nói trên.
2.2.1. Cách tiếp cận từ trên xuống (Top-Down)
Cắt chùm laser là cách để tạo ra huyền phù các hạt nano trong dung dịch. Trong
khi phương pháp khắc, chẳng hạn khắc chùm điện tử hay khắc chùm ion hội tụ
sẽ cho các cấu trúc nano kim loại trên đế rắn. Ưu điểm: Tạo ra các cấu trúc kim
loại tuần hoàn với kích thước thay đổi được. Có độ tinh khiết cao.
Nhược điểm: Tốn rất nhiều thời gian. Giá thành đắt do phải sử dụng các thiết bị
công nghệ cao. Khó có thể thay đổi được hình thái học bề mặt.
Cắt laser
(laser ablation
Khắc chùm điện tử
(E-Lithography)
Khắc sử dụng chùm
ion hội tụ (The focused
ion beam (FIB))
2.2.2. Cách tiếp cận từ dưới lên (Bottom-Up)
Có nhiều phương pháp khác nhau:
- Phương pháp vật lý (phún xạ, bốc bay)
- Phương pháp tạo khuôn, ăn mòn
7
- Phương pháp hóa học
Phương pháp khử hóa học được sử dụng nhiều nhất
(bản chất là ion kim loại được khử thành nguyên tố
kim loại). Với các thành phần trong dung dịch lắng
đọng được mô tả như hình vẽ bao gồm:
Chất bị khử (tiền chất): thường là AgNO3, HAuCl4.
Chất khử (tác nhân khử): Có thể là kim loại, bán
dẫn, các muối citrate, borohydrite (hai loại muối
này được sử dụng nhiều nhất).
Dung môi hòa tan (nước được sử dụng nhiều nhất, cồn).
Chất hoạt động bề mặt (để tạo hạt nano) (PVP được dùng nhiều nhất, CTAB).
Cần lưu ý một chất có thể đóng nhiều vai trò khác nhau, chẳng hạn PVP có thể
vừa đóng vai trò lả chất khử, vừa đóng vai trò là chất hoạt động bề mặt. Quá
trình lắng đọng cũng có thể thực hiện trực tiếp trên đế rắn, chẳng hạn đế Al, Cu
và trong trường hợp của chúng tôi là đế Si. Đế Si của chúng tôi vừa đóng vai trò
là đế để lắng đọng các hạt Ag, Au lên trên vừa đóng vai trò là chất khử.
2.3. Các phương pháp khảo sát cấu trúc và tính chất của đế SERS
Phương pháp chụp ảnh SEM: Để phân tích hình thái của đế SERS.
Phương pháp đo nhiễu xạ tia X (XRD): Để phân tích cấu trúc đế SERS.
Phương pháp ghi phổ UV-Vis: Để phân tích tính chất cộng hưởng plasmon của
đế SERS.
Phương pháp ghi phổ Raman: Để phân tích phổ SERS của các phân tử hữu cơ
độc hại.
Chương 3
Chế tạo và khảo sát các tính chất của các cấu trúc
nano bạc và nano vàng trên Si
3.1. Quy trình chế tạo cấu trúc nano bạc trên Si bằng phương pháp lắng
đọng hóa học và lắng đọng điện hóa
Quy trình lắng đọng các hạt nano Ag trên Si bằng phương pháp lắng đọng hóa
học được mô tả như Hình 3.1. Sau khi các đế Si được làm sạch, chúng được
ngâm vào trong dung dịch lắng đọng chứa sẵn các hóa chất. Sau thời gian chế
tạo, các đế được lấy ra, rửa và để khô tự nhiên và tiến hành đo đạc phân tích.
Hình 3.1. Sơ đồ các bước chế tạo các cấu trúc nanô bạc trên Si
bằng phương pháp lắng đọng hóa học.
8
Quy trình lắng đọng các hạt nano Ag trên Si bằng phương pháp lắng đọng điện
hóa được mô tả như Hình 3.2.
Quy trình này là giống với
quy trình lắng đọng các hạt
nano Ag trên Si bằng phương
pháp lắng đọng hóa học. Khác
là sau khi chế tạo đế Si được
gắn vào cực âm của nguồn
điện một chiều, cực dương
làm bằng platin.
Hình 3.2. Sơ đồ chế tạo các cấu trúc nano bạc
và vàng trên Si bằng phương pháp lắng đọng
điện hóa.
3.3. Chế tạo các hạt nano bạc trên Si bằng phương pháp lắng đọng hóa học
3.3.1. Kết quả chế tạo
Hình 3.4 trình bày ảnh SEM của các mẫu được lắng đọng trong dung dịch có
chứa 0,14 M HF và 0,1 mM AgNO3 trong nước với thời gian lắng đọng khác
nhau. Ở thời điểm 3 phút đã xuất hiện các AgNPs trên bề mặt Si (Hình 3.4 (a)).
Khi thời gian lắng đọng tăng lên 4 phút, các AgNPs phân bố khá đồng đều, có
dạng hình cầu hoặc thon dài với đường kính của khoảng 70 – 100 nm (Hình 3.4
(b)). Khi thời gian lắng đọng tiếp tục tăng lên 5 phút, các AgNPs có xu hướng
kết lại với nhau và hình thành nên các hạt có kích thước lớn hơn (200 – 250 nm)
đồng thời khoảng cách giữa các hạt tăng lên.
Hình 3.4. Ảnh SEM bề mặt của các AgNPs trên Si được chế tạo bằng phương
pháp lắng đọng hóa học trong dung dịch có chứa 0,14 M HF/0,1 mM AgNO3
với thời gian lắng đọng: (a) 3 phút, (b) 4 phút và (c) 5 phút ở nhiệt độ phòng.
3.3.2. Cơ chế hình thành các hạt nano bạc trên Si được chế tạo bằng phương
pháp lắng đọng hóa học
Cơ chế hình thành các hạt Ag trên Si là cơ chế thay thế galvanic (galvanic
replacement mechanism), trong đó bạc (Ag) thay thế silic (Si). Cụ thể, quá trình
này diễn ra dựa trên một phản ứng oxi hóa khử, trong đó các ion Ag+ trong dung
dịch sẽ bị khử thành bạc nguyên tử (Si là tác nhân khử), đồng thời Si bị oxi hóa
và hòa tan trực tiếp bởi HF hoặc Si bị ô xy hóa bởi H2O thành thành SiO2 sau đó
SiO2 này bị HF hòa tan vào dung dịch. Cả hai quá trình này đều xảy ra đồng thời
trên bề mặt Si và được biểu diễn thông qua các phương trình phản ứng sau:
Tại Catốt:
9
(3.1)
Tại Anốt:
- Khi Si bị ôxy hóa và hòa tan trực tiếp bởi HF:
(3.2)
- Khi Si bị ôxy hóa bởi H2O và hòa tan gián tiếp bởi HF:
(3.3)
(3.4)
- Phản ứng tổng cộng đối với cả hai cách hòa tan Si đều là:
(3.5)
Ở đây cũng cần nói thêm đến vai trò của HF trong dung dịch lắng đọng. Cụ thể,
sau quá trình phản ứng (3.3), SiO2 sẽ dần hình thành trên bề mặt Si. Sau một
khoảng thời gian nhất định lớp ôxít này sẽ bao phủ toàn bộ bề mặt Si và nó ngăn
cản sự chuyển điện tử từ bề mặt Si tới ion Ag+ và làm cho quá trình lắng đọng bị
ngừng lại. Để quá trình lắng đọng Ag lên trên bề mặt Si được tiếp tục diễn ra thì
trong dung dịch lắng đọng cần có thêm HF và HF sẽ hòa tan lớp SiO2 theo
phương trình (3.4). Khi đã có các nguyên tử Ag, chúng sẽ liên kết với nhau để
tạo thành AgNPs.
3.4. Nghiên cứu chế tạo các cấu trúc cành lá nano bạc trên Si
3.4.1. Chế tạo các cành lá nano bạc trên Si bằng phương pháp lắng đọng hóa
học
Hình 3.5 trình bày các
ảnh SEM của bề mặt
mẫu Si sau khi được
lắng đọng hóa học Ag
trong thời gian 15
phút ở nhiệt độ phòng
trong dung dịch có
chứa 4.8 M HF và
AgNO3 với nồng độ
AgNO3 thay đổi. Có
thể dễ dàng thấy rằng
hình thái cấu trúc của
Ag được lắng đọng
lên trên bề mặt Si phụ
Hình 3.5. Ảnh SEM bề mặt của các cấu trúc nanô Ag
được lắng đọng hóa học lên trên đế Si trong 15 phút
trong dung dịch 4.8 M HF/AgNO3 ở nhiệt độ phòng với
nồng độ AgNO3 thay đổi: (a) 0,25 mM, (b) 1 mM, (c)
2,5 mM, (d) 5 mM, (e) 10 mM và (f) 20 mM.
thuộc vào nồng độ AgNO3 trong dung dịch lắng đọng và các AgNDs cũng sẽ chỉ
được tạo thành trên bề mặt Si khi nồng độ AgNO3 là đủ lớn. Cụ thể, tại nồng độ
20 mM AgNO3 (Hình 3.5 (f)), các nhánh phụ được mọc ra từ các thanh nano Ag
và các AgNDs đã được hình thành trên bề mặt của Si. Có thể thấy rõ rằng cấu
trúc AgNDs là một cấu trúc đa bậc (multi-hierarchical structure) và cấu trúc
AgNDs mà chúng tôi chế tạo được có cấu trúc phân nhánh bậc 2 (một nhánh
chính dài với các nhánh phụ ngắn mọc hai bên). Đường kính của nhánh chính là
10
khoảng một vài trăm nm, và chiều dài của nó lên đến hàng chục µm, các nhánh
phụ có độ dài khoảng vài µm.
3.4.2. Chế tạo các cành lá nanô Ag trên Si bằng phương pháp lắng đọng điện
hóa
Hình 3.9 là ảnh SEM của các
AgNDs trên Si được chế tạo bằng
phương pháp lắng đọng điện hóa ở
chế độ ổn thế với điện thế thay đổi
(5, 10, 12 và 15V). Khi hiệu điện
thế là 12V (Hình 3.9 (c)), lúc này
các AgNDs đã hoàn toàn phân
nhánh bậc 3 (từ các nhánh phụ mọc
thêm các nhánh phụ tiếp theo) tạo
ra một cấu trúc cành lá khá đẹp và
đồng đều. Tuy vậy, khi tiếp tục
tăng điện thế ngoài lên 15V, sự
đồng đều về cấu trúc và trật tự của
AgNDs lúc này bị phá vỡ và có
một số nhánh phụ bị gãy ra khỏi
nhánh chính (Hình 3.9 (d)).
Hình 3.9. Ảnh SEM bề mặt của các đế
AgNDs@Si được chế tạo bằng lắng đọng
điện hóa 15 phút trong dung dịch 4.8 M
HF/20 mM AgNO3 với điện thế ngoài
tương ứng: (a) 5; (b) 10, (c) 12 và (d)
15V.
20 30 40 50 60 70
(220)
C
ên
g
®
é
(®
.v
.t
.y
)
2q (®é)
(111)
(200)
Hình 3.11. Giản đồ XRD của
AgNDs được lắng đọng điện hóa
trên Si.
Có thể thấy khi mật độ dòng điện
lắng đọng tăng lên 3 mA/cm2, các
AgNDs được hình thành trên bề
mặt Si lúc này hầu như đã phân
Hình 3.12. Ảnh SEM bề mặt của các
AgNDs trên đế Si được chế tạo bằng lắng
đọng điện hóa 15 phút trong dung dịch
nước chứa 4.8 M HF/20 mM AgNO3 với
các mật độ dòng tương ứng: (a) 1; (b) 2;
(c) 3; và (d) 4 mA/cm2.
nhánh bậc 3 hoàn toàn và bắt đầu có sự phân nhánh bậc 4, điều này làm cho mật
độ các nhánh trên một cành lá trở nên rất dày (Hình 3.12 (c)). Tiếp theo, khi mật
độ dòng tăng lên đến 4 mA/cm2 (Hình 3.12 (d)), các lớp AgNDs tiếp tục được
hình thành và chồng lên nhau tạo ra một sự mất đồng đều, mặt khác do mật độ
các nhánh được hình thành trên một cành lá là quá dày dẫn đến một số nhánh
11
phụ nhỏ bị gãy. Các kết trên cho thấy mật độ dòng điện lắng đọng là 3 mA/cm2
sẽ cho các lá bạc đồng đều nhất. Kết quả XRD của các mẫu sau quá trình lắng
đọng điện hóa (Hình 3.11) cho biết AgNDs là đơn tinh thể với cấu trúc lập
phương tâm mặt (FCC). Cường độ của đỉnh Ag (111) mạnh hơn nhiều so với
các đỉnh khác, cho thấy sự mọc của các AgNDs chủ yếu theo hướng của mặt
phẳng tinh thể (111).
3.4.3. Cơ chế hình thành cành lá nano bạc
Cơ chế hình thành các AgNDs cho đến nay vẫn chưa thực sự được làm rõ. Tuy
nhiên, hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng sự hình thành của các cấu trúc
cành lá nano kim loại có thể được giải thích thông qua mô hình tập hợp giới hạn
khuếch tán (Diffusion-limited aggregation - DLA) và và sự gắn vào có định
hướng (oriented attachment). Theo mô hình DLA, đầu tiên có một hạt, sau đó
các hạt khác liên tục khuếch tán về phía hạt ban đầu để gắn vào với nhau tạo nên
hình dạng Dendrites. Sự gắn vào có định hướng (oriented attachment) được cho
là các hạt khi tiến tới liên kết với nhau thì bằng cách nào đó nó xoay tinh thể sao
cho phần tiếp giáp có cùng định hướng tinh thể để tạo ra cấu trúc đơn tinh thể.
Vì vậy cơ chế hình thành của các cấu trúc AgNDs trên Si có thể được giải thích
như sau. Đầu tiên các AgNPs sẽ được hình thành trên bề mặt Si theo cơ chế đã
được trình bày ở mục 3.3. Tiếp theo các AgNPs khác cũng sẽ khuếch tán liên tục
về phía các AgNPs ban đầu này hình thành nên các AgNPs với kích thước lớn
hơn. Các đám AgNPs sẽ gắn vào có định hướng hình thành nên các thanh nanô
và dây nano Ag. Các thanh và dây này sẽ trở thành các nhánh chính (xương
sống - backbone) của các cành lá. Khi nhánh chính mọc dài ra thì các nhánh phụ
ngắn mới cũng sẽ liên tục được hình thành trên nhánh chính tạo ra một cấu trúc
có dạng giống như là lá cây dương xỉ. Đặc biệt hơn, các nhánh phụ này cũng có
thể trở thành một nhánh chính để mọc ra các nhánh phụ ngắn hơn. Điều này
giúp cho cấu trúc cành lá trở nên là một cấu trúc đa bậc (multi-hierarchical
structure).
3.5. Chế tạo các cấu trúc hoa nano bạc trên Si
3.5.1. Kết quả chế tạo
Có thể thấy rằng khi nồng độ AgNO3
đạt tới 1 mM các AgNFs bắt đầu được
hình thành trên bề mặt Si (Hình 3.15
(d)). Các AgNFs này có kích thước
tương đối đồng đều (khoảng 700 nm)
và bề mặt của chúng gồ ghề.
Theo một số tác giả, các AgNFs có thể
đạt được độ gồ ghề tốt hơn bằng cách
thêm vào dung dịch lắng đọng chất
hoạt động bề mặt polyvinylpyrrolidone
(PVP), do đó chúng tôi sử dụng PVP
Hình 3.15. Ảnh SEM bề mặt của các
cấu trúc nano Ag được lắng đọng hóa
12
thay thế cho AsA trong dung dịch lắng
đọng để chế tạo các AgNFs trên bề
mặt Si. Các kết quả minh họa trong
Hình 3.17.
học trên Si trong dung dịch 4,8 M
HF/AgNO3/5 mM AsA trong 10 phút
ở nhiệt độ phòng với nồng độ AgNO3
khác nhau (a) 0,05 mM, (b) 0,1 mM,
(c) 0,5 mM và (d) 1 mM.
Có thể thấy được rằng, việc sử dụng PVP trong dung dịch lắng đọng giúp tạo ra
được các AgNFs có độ gồ ghề tốt hơn hẳn với Kích thước của các AgNFs là
khoảng 1 µm.
Hình 3.17. Ảnh SEM bề mặt của các AgNFs chế tạo trong dung dịch lắng đọng
4,8 M HF/1 mM AgNO3/PVP với nồng độ PVP thay đổi (a) 5 mM, (b) 10 mM
và (c) 15 mM trong thời gian 10 phút ở nhiệt độ phòng.
Hình 3.18. Ảnh SEM bề mặt của các
AgNFs trong dung dịch lắng đọng 4,8
M HF/1 mM AgNO3-/PVP/10 mM
AsA với các nồng độ PVP khác nhau:
(a) 1 mM, (b) 3 mM, (c) 5 mM và (d)
7 mM trong 10 phút ở nhiệt độ phòng.
Tuy nhiên, chúng tôi muốn có các
AgNFs có các điểm nhọn vì vậy chúng
tôi sử dụng đồng thời AsA và PVP
trong dung dịch lắng đọng. Các kết
quả được minh họa trong Hình 3.18.
Có thể thấy được rằng, việc sử dụng
đồng thời PVP và AsA trong dung
dịch lắng đọng giúp tạo ra cấu trúc hoa
sắc nhọn với kích thước của các
AgNFs tăng lên khoảng 1 µm đến 1,5
µm. Đồng thời kết quả chế tạo của
chúng tôi cũng thấy rằng với thời gian
Hình 3.19. Ảnh SEM bề mặt của các
AgNFs trong dung dịch lắng đọng 4,8
M HF/1 mM AgNO3/10 mM AsA/5
mM PVP với thời gian lắng đọng khác
nhau: (a) 1 phút, (b) 4 phút, (c) 10
phút và (d) 15 phút.
20 30 40 50 60 70
C
ên
g
®
é
(®
.v
.t
.y
)
2q (§é)
(111)
(200)
(220)
Hình 3.20. Giản đồ nhiễu xạ tia X
(XRD) của AgNFs trên Si
13
lắng đọng 10 phút cho mật độ hoa đồng đều nhất như minh họa trong Hình
3.19. Kết quả XRD của các mẫu sau quá trình lắng đọng điện hóa (Hình 3.11)
cho biết AgNFs là đơn tinh thể với cấu trúc lập phương tâm mặt (FCC). Hướng
ưu tiên phát triển tinh thể là hướng [111].
Hình 3.22 minh họa phổ cộng hưởng
plasmon của các cấu trúc AgNPs,
AgNFs, AgNDs trong vùng bước sóng
kích thích từ 300 nm đến 800 nm. Đối
với cấu trúc AgNPs có kích thước
trung bình 70 nm (Hình 3. 4 (b)) có
một đỉnh cực đại tại bước sóng kích
thích 425 nm. Đối với các cấu trúc
AgNFs và AgNDs ta có dải plasmon
rộng trong toàn vùng bước sóng kích
thích. Dải plasmon rộng này được lý
giải do các cấu trúc AgNFs và AgNDs
là các cấu trúc phân nhánh đa bậc, mỗi
phân nhánh thể hiện một kiểu plasmon
300 400 500 600 700 800
0.0
0.5
1.0
1.5
2.0
2.5
3.0
3.5
Đ
ộ
h
ấ
p
t
h
ụ
(
đ
.v
.t
.y
)
Bước sóng (nm)
AgNPs
AgNFs
AgNDs
Hình 3.22. Phổ cộng hưởng plasmon
của các cấu trúc AgNPs, AgNFs,
AgNDs.
riêng của nó và được quy cho sự lai hóa của các plasmon liên quan đến trung
tâm của lõi và các đỉnh nhọn xung quanh nó. Cộng hưởng plasmon ở bước sóng
dài hơn xuất hiện do kết nối điện trường gần (near-field) giữa các đầu nhọn khi
các đầu nhọn ở gần nhau. Do kích thước và hình dạng không đồng nhất của
phần lõi và các đầu nhọn của các AgNDs và AgNFs, các chế độ plasmon riêng
lẻ của tất cả các loại kích thước và hình dạng này đã được ghép nối với nhau,
dẫn đến dải cộng hưởng plasmonic rộng và phức tạp như được mô tả trên Hình
3.22 và được mở rộng đến vùng hồng ngoại gần. Hiện tượng cộng hưởng
plasmon ở nhiều dải bước sóng kích thích khác nhau của các cấu trúc AgNDs và
AgNFs còn được ghi nhận khi chúng tôi đã ghi được phổ SERS của tất cả bảy
loại phân tử chất độc hại khác nhau bằng cả hai loại bước sóng laser kích thích
là 633 nm và 785 nm đều cho kết quả tốt. Như vậy, đặc tính hoạt động cộng
hưởng plasmon ở nhiều bước sóng kích thích khác nhau là một ưu điểm lớn đối
với hai loại cấu trúc AgNDs và AgNFs trong phân tích SERS.
3.5.2. Cơ chế hình thành các hoa nano bạc trên Si
Khi cho Si vào trong dung dịch phản ứng có chứa HF/AgNO3/AsA/PVP
các ion Ag+ không chỉ được khử bởi Si (theo phương trình phản ứng (3.1)) mà
còn được khử bởi AsA. Sự khử các ion Ag+ bởi AsA được xảy ra theo phương
trình phản ứng sau (2008 Y Wang [169]):
C6H8O6 + 2 Ag+ C6H6O6 + 2 Ag + 2 H+ (3.5)
Theo phương trình (3.5) các ion Ag+ sẽ được khử trực tiếp thành nguyên tử Ag
trong dung dịch bởi AsA. Chính vì vậy quá trình lắng đọng Ag trong dung dịch
lắng đọng có thêm AsA sẽ xảy ra với tốc độ nhanh hơn dẫn đến kích thước của
14
các cấu trúc nano Ag được hình thành trên bề mặt Si là lớn hơn hẳn so với các
AgNPs được lắng đọng trong dung dịch chỉ có HF và AgNO3.
Khi bổ sung thêm chất hoạt động bề mặt PVP vào dung dịch lắng đọng, PVP sẽ
ưu tiên hấp phụ lên các họ mặt {100} hơn so với các họ mặt {111}. Do đó trong
quá trình phát triển các cấu trúc nano bạc, PVP sẽ đóng vai trò giống như một
chất “chụp mũ” (capping agent) ngăn cản các hạt tiến tới liên kết trên các mặt
{100} vì vậy các hạt Ag sẽ ưu tiên liên kết với các mặt {111}. Khi nồng độ PVP
trong dung dịch lắng đọng thấp mức độ phủ của PVP lên bề mặt (100) thấp dẫn
tới sự phát triển tại các mặt {100} và {111} gần giống nhau vì vậy hoa có bề
mặt nhẵn. Khi nồng độ PVP cao, PVP sẽ phủ lên hầu hết các mặt {100} dẫn tới
các hạt chỉ có thể tiến tới liên kết với mặt {111} và tạo ra hình thái sắc nhọn.
Như vậy cơ chế hình thành AgNFs trong dung dịch lắng đọng có chứa AsA và
PVP có thể được chia thành ba giai đoạn:
i) Giai đoạn đầu: Với sự có mặt của chất khử AsA số lượng nguyên tử Ag nhanh
chóng được hình thành và liên kết với nhau tạo thành hạt nhân (mầm).
ii) Giai đoạn hai: Các nguyên tử bạc tiếp tục được tạo ra và các hạt nhân phát
triển thành các cấu trúc nano với kích thước lớn hơn.
iii) Giai đoạn cuối: Khi cấu trúc nano phát triển đến một kích thước nhất định,
các mặt tinh thể trở nên đủ lớn cho PVP có thể hấp phụ trên bề mặt. PVP sẽ
ngăn cản sự phát triển của các cấu trúc Ag theo hướng [100] và các hạt Ag sẽ
tiến đến liên kết theo hướng [111] để tạo ra các cấu trúc AgNFs.
3.6. Chế tạo hoa nano vàng bằng phương pháp lắng đọng điện hóa
3.6.1. Chế tạo hoa nano vàng trên mầm bạc
Hình 3.21. Ảnh SEM bề mặt của
mầm Ag trên Si được chế tạo bằng
lắng đọng điện hóa với mật độ dòng
0,05 mA/cm2 trong 3 phút trong dung
dịch chứa 0,1 mM AgNO3 và 0,14
mM HF.
Hình 3.22. Ảnh SEM bề mặt của
AuNFs được chế tạo bằng lắng đọng
điện hóa với mật độ dòng 0,1 mA/cm2
trong 10 phút trong dung dịch chứa
0,1 mM HAuCl4 và 0,14 mM HF trên
Si có sẵn các mầm Ag.
Để chế tạo được các cấu trúc hoa nano vàng (AuNFs) trên Si chúng tôi đã tách
riêng quá trình tạo mầm và quá trình phát triển. Cụ thể, chúng tôi sử dụng các
hạt nano Ag được chế tạo bằng phương pháp lắng đọng điện hóa trên bề mặt Si
làm mầm để mọc các AuNFs. Cần lưu ý thêm rằng cho đến nay hầu hết các
15
nhóm nghiên cứu đều sử dụng các hạt nano vàng để làm mầm cho sự mọc các
AuNFs. Lý do chúng tôi sử dụng các mầm Ag thay thế mầm Au vì AgNPs sẽ
thúc đẩy sự phát triển dị hướng của hạt Au trên một số trục tinh thể nhất định,
do đó cấu trúc AuNFs được hình thành dễ dàng hơn theo như báo cáo gần đây
của nhóm tác giả Ujihara. Một điểm mới nữa trong việc chế tạo AuNFs trong
nghiên cứu của chúng tôi đó là việc sử dụng phương pháp lắng đọng điện hóa
trong cả bước chế tạo mầm và bước mọc các AuNFs. Kết quả SEM trong Hình
3.21 cho thấy sau quá trình lắng đọng, các mầm Ag được tạo ra có hình thái học
bề mặt gần giống như hình cầu hoặc các hạt thon dài với kích thước trung bình
khoảng 40 nm và khoảng cách giữa các AgNPs là khoảng hàng trăm nm được
tạo thành trên bề mặt Si.
Sau đó chúng tôi ngâm đế Si có sẵn các mầm Ag vào trong dung dịch điện hóa
có chứa HauCl4, sau thời gian lắng đọng chúng tôi thu được các AuNFs như
minh họa trong Hình 3.22. Ảnh SEM Hình 3.22 cho biết các AuNFs là đồng
đều trên bề mặt với đường kính khoảng 100 – 120 nm, khoảng cách giữa các
AgNFs khoảng vài chục nm.
Kết quả XRD của các mẫu AuNFs
sau quá trình lắng đọng điện hóa
(Hình 3.11) cho biết AuNFs là đơn
tinh thể với cấu trúc lập phương tâm
mặt (FCC). Hướng ưu tiên phát triển
tinh thể là hướng [111].
Hình 3.23. a) Giản đồ nhiễu xạ tia X
(XRD) của cấu trúc hoa nano vàng.
3.6.2. Cơ chế hình thành hoa nano vàng
Cơ chế hình thành hoa nano vàng trên Si được dựa trên phản ứng oxi hóa khử
trong đó Au3+ bị khử trên bề mặt Si (với Si là tác nhân khử) và Si bị oxi hóa
thành SiO2 (theo phản ứng (3.1) đến (3.5)). Phương trình khử Au3+ thành
nguyên tử Au được biểu diễn qua phương trình sau (2011 L M A Monzon
[209]):
(3.6)
Ngoài ra, các nguyên tử Au cũng có thể được sinh ra thông qua một bước trung
gian theo phương trình:
(3.7)
(3.8)
Trong quá trình hình thành nguyên tử Au theo phương trình (3.8) sẽ tồn tại một
phản ứng khử trung gian (phương trình (3.7)), tại đó ion được khử thành
trước khi được khử tiếp để tạo thành nguyên tử vàng theo phương trình
(3.8). Quá trình tạo ra nguyên tử vàng theo phương trình (3.7) và (3.8) là quá
trình yếu hơn rất nhiều so với quá trình tạo nguyên tử vàng theo phương trình
(3.6). Theo L. M. A Monzon và cộng sự phương trình (3.7) và (3.8) muốn diễn
16
ra sẽ cần một năng lượng lớn hơn so với phương trình (3.6) hoặc dung môi lắng
đọng của nó phải là dung môi hữu cơ thay vì dung môi nước. Sau khi có các
nguyên tố Au, các Au sẽ tiến tới liên kết với một số mặt xác định của mầm Ag.
Cuối cùng các hạt Au sẽ gắn có định hướng với các hạt Au đã có trên mộ số bề
mặt của mầm Ag tạo nên các AuNFs.
Chương 4
Sử dụng các cấu trúc nano vàng, bạc dạng hoa, lá làm đế SERS để phát
hiện vết của một số phân tử hữu cơ
4.1. Các hóa chất được dùng để phân tích SERS và các bước chuẩn bị đế
SERS trước khi đo
Quy trình lấy mẫu phân tích SERS được thực hiện với các bước:
Chuẩn bị đế SERS (mục 3.1); Các chất phân tích được pha sẵn với nồng độ định
trước (tính theo đơn vị ppm); Một lượng cố định 25 µl của chất phân tích pha
sẵn được nhỏ lên bề mặt đế SERS; Để khô đế đã nhỏ chất phân tích một cách tự
nhiên trong môi trường phòng thí nghiệm trước khi đo SERS.
Có bảy loại phân tử hữu cơ khác nhau đã được chúng tôi sử dụng cho việc phân
tích SERS như trình trình bày trong Bảng 4.1.
Bảng 4.1. Các loại phân tử hữu cơ sử dụng cho phân tích SERS
ST
T
Tên hóa
chất
Công thức
hóa học
Nồng độ cho phép
tại Việt nam
Loại đế SERS
được sử dụng
1 Paraquat C12H14N2Cl2
Đã cấm tại VN theo Quyết định
Số: 278/QĐ-BNN-BVTV ngày
08 tháng 02 năm 2017
AgNDs - lắng
đọng hóa học
và lắng đọng
ổn thế
2 Pyridaben C19H25ClN2OS
Số: 13/2018/TT-BNNPTNT –
Không quy định hàm lượng
cho phép
AgNDs - lắng
đọng ổn dòng
3 Thiram C6H12N2S4 Không có dữ liệu
AgNDs- lắng
đọng ổn dòng
4
Crystal
violet
C25H30N3Cl
Đã cấm theo Thông tư số
15/2009/TT-BNN ngày 17
tháng 3 năm 2009 của Bộ
trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn
AgNFs - lắng
đọng hóa học
5 Cyanine KCN
75 μg/l nước uống theo TCVN
7723-1:2015
AgNFs - lắng
đọng hóa học
6 Melamine C3H6N6
2,5 mg/kg đối với thức ăn chăn
nuôi, thông tư Số: 28/2014/TT-
BNNPTNT
AgNFs - lắng
đọng hóa học
7
Rhodamine
B
C28H31ClN2O3 Cấm sử dụng trong thực phẩm
AuNFs - lắng
đọng ổn dòng
4.2. Nghiên cứu các yêu cầu của một đế SERS tốt
4.2.1. Tính đồng đều của các cấu trúc cành lá và hoa nano vàng, bạc
17
Trong mục này chúng tôi minh chứng cho tính đồng đều của của các loại đế
SERS đã chế tạo được trên bề mặt và tính đồng đều giữa các lô mẫu bằng cách
phân tích SERS thông qua phổ SERS của RhB.
Trước tiên chúng tôi thực hiện khảo sát tính đồng đều trên bề mặt của mẫu lá
(AgNDs). Phổ SERS của RhB của một trong các mẫu lá được minh họa trong
Hình 4.1.
Quan sát bằng mắt thường trên Hình
4.1 chúng ta có thể thấy phổ SERS
của “đế trắng” gần như là một đường
thẳng chứng tỏ là quy trình rửa mẫu
của chúng tôi đã loại bỏ được hầu hết
các chất dư thừa trên bề mặt đế SERS.
Cũng theo quan sát trên Hình 4.1, các
đường cong và cường độ các đỉnh
tương ứng tại bảy vị trí khác nhau là
tương đối đều khó có thể phân biệt
bằng mắt thường. Để có kết quả chính
xác hơn chúng tôi thực hiện các phép
tính để tính độ lặp lại của phép đo
bằng cách sử dụng khái niệm độ chụm
thông qua độ lệch chuẩn SD và độ
lệch chuẩn tương đối RSD.
600 800 1000 1200 1400 1600 1800
1196
1527
1506
619
1355
1644
VT 2
VT 3
VT 4
VT 6
VT 5
VT 7
C
ê
n
g
®
é
(
®
.v
.t
.y
)
DÞch chuyÓn Raman (cm
-1
)
6000 ®¬n vÞ
VT 1§Õ tr¾ng
1278
Hình 4.1. Phổ SERS của RhB với nồng
độ 1 ppm thu được khi sử dụng đế
SERS là AgNDs được chế tạo bằng
lắng đọng ổn dòng tại bảy vị trí khác
nhau.
Hoàn toàn tương tự như vậy chúng tôi tính cho các cấu trúc AgNFs và AuNFs,
kết quả được minh họa trong Bảng 4.5. Các kết quả cho thấy các cấu trúc được
nói trên có độ đồng đều tốt.
Bảng 4.5. So sánh số liệu thu được trên các đế AgNDs, AuNFs và AgNFs
Vị trí đỉnh
phổ SERS
Loại đế SERS
Cường độ đỉnh
trung bình
(đ.v.d.t)
Độ lệch chuẩn
(SD)
Độ lệch chuẩn
tương đối
(RSD%)
Đỉnh 1278
AgNDs 104.230,213 10.340,316 9,920
AuNFs 73.708,814 5.345,167 7,252
AgNFs 10.359,4419 719,365 6,944
Đỉnh 1644
AgNDs 93.148,3791 10.644,68 11,428
AuNFs 61.130,0398 5.120,697 8,377
AgNFs 10.076,8761 807,195 8,010
Bảng 4.6. Các số liệu thu được trên đế AgNFs của năm lô mẫu khác nhau
Nồng độ
chất
phân tích
Vị trí
đỉnh phổ
SERS
Lô
mẫu
Cường độ đỉnh
(đ.v.d.t)
Độ lệch chuẩn
(SD)
Độ lệch chuẩn
tương đối
(RSD%)
1 ppm
Đỉnh 1278
cm-1
Lô 1 1285
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_an_che_tao_cac_cau_truc_nano_vang_bac_dang_hoa.pdf