Đề nghị Chính phủ sớm hoàn thiện dự thảo Luật về hội trình
Quốc hội ban hành để kịp thời đưa vào áp dụng, trong đó cần phản
ánh đúng tâm tư, nguyện vọng của nhân dân về quyền lập hội và đáp
ứng nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật đối với công tác quản lý nhà
nước về hội và Luật phải thực sự cần thiết cho sự phát triển của xã
hội; Xem xét, bỏ cơ chế hội đặc thù để tránh sự phân biệt giữa các
hội trong việc quản lý nhà nước đối với các hội nhằm tạo sự công
bằng đối với các hội; chỉ quy định việc hỗ trợ kinh phí đối với các tổ
chức hội được nhà nước giao nhiệm vụ, còn các tổ chức hội quần
chúng khác hoạt động dựa trên sự tự nguyện, tự phấn đấu để tồn tại,
phát triển.
26 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 08/03/2022 | Lượt xem: 313 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Quản lý nhà nước về hoạt động của các tổ chức hội trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của các tổ chức hội là một
nhiệm vụ quan trọng trong hoạt động quản lý nhà nước của tỉnh Đắk
Lắk nhằm phát huy tính tích cực của các tổ chức hội, góp phần phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương, góp phần thực hiện cụ thể
đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của nhà
nước trong việc hỗ trợ các tổ chức hội hoạt động hiệu quả.
3
Với lý do đó, tôi chọn Đề tài “Quản lý nhà nước về hoạt động của
các tổ chức hội trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk” làm luận văn tốt nghiệp
chương trình đào tạo Cao học chuyên ngành Quản lý Công.
2. Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và phân
tích thực trạng quản lý nhà nước đối với các tổ chức hội của công dân
trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk đề xuất các giải pháp hoàn thiện nội dung
quản lý nhà nước về hoạt động của các tổ chức hội trên địa bàn tỉnh.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn
là hoạt động quản lý nhà nước đối với hoạt động của các tổ chức hội
quần chúng.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: hoạt động quản lý nhà nước về hoạt động của các
tổ chức hội theo quy định của pháp luật.
- Về không gian: đề tài nghiên cứu, điều tra hoạt động trên địa
bàn tỉnh Đắk Lắk.
- Về thời gian: tập trung vào phân tích, đánh giá trong giai đoạn 2012 - 2016.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Phƣơng pháp luận nghiên cứu: Luận văn được nghiên
cứu trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử, dựa trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm,
chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam và nhà nước đối với hoạt
động của các tổ chức hội trong thời kỳ đổi mới.
4
4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu: Phương pháp nghiên cứu được
tác giả sử dụng trong luận văn gồm: Phương pháp nghiên cứu lý thuyết và
thực tiễn; Phương pháp phân tích; Phương pháp so sánh; Phương pháp lập
bảng, biểu.
5. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ hơn cơ sở khoa học của hoạt động
quản lý nhà nước về hoạt động của các tổ chức hội; vận dụng trong
quản lý nhà nước về hoạt động của các tổ chức hội trên địa bàn tỉnh
Đắk Lắk.
6. Cấu trúc của đề tài nghiên cứu
Ngoài phần mở đầu, kết luận, các bảng, biểu, và danh mục tài
liệu tham khảo, Luận văn được kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở khoa học quản lý nhà nước về hoạt động của
các tổ chức hội.
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về hoạt động của các tổ
chức hội trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
Chương 3: Phương hướng, giải pháp quản lý nhà nước về hoạt
động của các tổ chức hội trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
5
Chƣơng 1
CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HOẠT ĐỘNG
CỦA CÁC TỔ CHỨC HỘI
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm quản lý nhà nước: Quản lý nhà nước là sự tác
động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước đối với các
quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người để duy trì và
phát triển các mối quan hệ xã hội và trật tự pháp luật nhằm thực hiện
những chức năng và nhiệm vụ của nhà nước trong công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
1.1.2. Khái niệm quản lý nhà nước đối với tổ chức hội: Quản lý
nhà nước đối với các tổ chức hội quần chúng là quá trình nhà nước sử
dụng các công cụ như chính sách, luật pháp, bộ máy và các nguồn
lực khác để kiểm soát hoạt động của các tổ chức hội nhằm đảm bảo
việc định hướng, điều chỉnh các tổ chức hội quần chúng hoạt động
đúng định hướng của nhà nước.
1.2. Sự cần thiết quản lý nhà nƣớc về hoạt động của các tổ
chức hội
Hội ở nước ta hiện nay phát triển khá đa dạng và phong phú với
nhiều tên gọi như hội, liên hiệp hội, đoàn, liên đoàn, ủy ban, câu lạc
bộ. Công tác quản lý nhà nước đối với hội từng bước được đổi mới,
bảo đảm các hội thành lập đúng quy định. Đến nay, đã có 20 bộ,
ngành ban hành thông tư hướng dẫn, thông tư liên tịch hoặc văn bản
thỏa thuận về mối quan hệ giữa bộ và hội. Nhiều bộ, ngành tạo điều
6
kiện hỗ trợ cơ sở vật chất, cán bộ cho hội, nhất là các sở, ngành địa
phương đã tạo điều kiện cho các hội hoạt động trong lĩnh vực do sở
quản lý. Các bộ, ngành đã quan tâm tạo điều kiện phát triển hội, giao
cho các hội thực hiện công tác tư vấn, phản biện, giám định xã hội và
cung ứng dịch vụ công.
Tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế trong quản lý nhà nước đối
với hội như: thủ tục thành lập hội còn khá phức tạp; cơ chế “quản lý
kép” đối với hội của các cơ quan chủ quản chưa được cụ thể hóa,
thiếu đầu mối thống nhất quản lý, gây khó khăn cho hoạt động của
hội; việc cấp kinh phí hoạt động cho hội, nhiều cơ quan, địa phương
chưa thực hiện đúng quy định của nhà nước, dẫn đến tình trạng phân
biệt, không công bằng giữa các hội; mối quan hệ phối hợp công tác
giữa Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội với các hội
chưa chặt chẽ, chưa phát huy đầy đủ vai trò nòng cốt trong các hội;
một số hội được thành lập do sự chỉ đạo có tính chất áp đặt của hội
cấp trên, không thực sự xuất phát từ nhu cầu của nhân dân.
Chính vì vậy, vấn đề quản lý nhà nước đối với các tổ chức hội là
hết sức cần thiết. Quản lý nhà nước đối với các hội có hiệu quả sẽ
giúp phát huy được sức mạnh của quần chúng và quyền làm chủ của
nhân dân, huy động được đông đảo các lực lượng quần chúng tham
gia các nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, giữ vững an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội.
7
1.3. Nội dung, phƣơng thức quản lý nhà nƣớc về hoạt động
của các tổ chức hội
1.3.1. Nội dung quản lý nhà nước về hoạt động của các hội
1.3.1.1. Xây dựng các thể chế, chính sách quản lý nhà nước về hội
1.3.1.2. Cho phép thành lập; chia, tách; sáp nhập; hợp nhất; giải
thể; đổi tên và phê duyệt điều lệ hội
1.3.1.3. Hoàn thiện tổ chức bộ máy, bồi dưỡng nghiệp vụ cho
công chức làm công tác quản lý hội
1.3.1.4. Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về hội;
kiểm tra việc thực hiện điều lệ hội đối với các hội
1.3.1.5. Tổng kết, đánh giá tình hình quản lý nhà nước đối với
hoạt động của các tổ chức hội.
1.3.2. Phương thức quản lý nhà nước về hoạt động của các tổ
chức hội
1.3.2.1. Nhà nước quản lý theo pháp luật, bằng pháp luật
1.3.2.2. Quản lý các tổ chức hội bằng hệ thống chính sách
1.3.2.3. Quản lý các tổ chức hội bằng hệ thống tổ chức bộ máy
1.3.2.4. Quản lý các tổ chức hội quần chúng bằng kiểm tra, giám sát
1.3.2.5. Quản lý các tổ chức hội bằng tổng kết, đánh giá.
1.4. Kinh nghiệm quản lý nhà nƣớc về hoạt động của các tổ
chức hội
8
1.4.1. Kinh nghiệm của một số địa phương
1.4.1.1. Tỉnh Phú Yên
1.4.1.2. Tỉnh Long An
1.4.2. Bài học kinh nghiệm cho tỉnh Đắk Lắk: Một số kinh
nghiệm có thể áp dụng vào quản lý hoạt động của các tổ chức hội ở
Đắk Lắk, gồm:
Thứ nhất, cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của
nhà nước đối với các tổ chức hội nhằm phát huy khối đại đoàn kết
dân tộc, phát huy sức mạnh toàn dân trong công cuộc phát triển kinh
tế - xã hội.
Thứ hai, hướng dẫn các tổ chức xã hội xây dựng quy chế hoạt
động, quy chế quản lý tài sản, tài chính đảm bảo tính dân chủ, minh
bạch và đúng pháp luật trong hoạt động nội bộ của hội; cơ chế giải
quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động của hội.
Thứ ba, Ủy ban nhân dân tỉnh cần chỉ đạo các Sở, ban, ngành và
Ủy ban nhân dân các cấp phối hợp với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể chính trị - xã hội ở địa phương tiến hành rà soát, thống kê, phân
loại các hội nhằm nắm lại toàn bộ số lượng, quy mô và phạm vi hoạt
động, đồng thời nghiên cứu về biện pháp và cách thức quản lý phù
hợp nhằm từng bước hướng hoạt động của các hội theo đúng khuôn
khổ của pháp luật và đáp ứng nhu cầu thực tế đa dạng của quần
chúng nhân dân.
Thứ tư, đối với những tổ chức xã hội hoạt động kém hiệu quả,
không còn phù hợp với nhu cầu, nguyện vọng của hội viên; bộ máy
9
tổ chức trì trệ, không hoạt động, uy tín bị giảm sút nghiêm trọng kéo
dài, nhiều nhiệm kỳ không đại hội được; hoặc tổ chức xã hội hoạt
động thường xuyên không đúng với điều lệ, vi phạm các quy định
của pháp luật, trái với chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước
thì cần xem xét giải thể theo đúng thủ tục quy định.
Tiểu kết Chƣơng 1
10
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HOẠT ĐỘNG
CỦA CÁC TỔ CHỨC HỘI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK
2.1. Khái quát hoạt động của các tổ chức hội trên địa bàn
tỉnh Đắk Lắk
2.1.1. Về số lượng tổ chức hội
2.1.2. Hoạt động của một số tổ chức hội
2.2. Thực trạng quản lý nhà nƣớc về hoạt động của các tổ
chức hội trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
2.2.1. Xây dựng các thể chế, chính sách quản lý nhà nước về
hội và công tác chỉ đạo, điều hành hoạt động quản lý nhà nước đối
với các hội quần chúng
2.2.2. Cho phép thành lập; chia, tách; sáp nhập; giải thể; đổi
tên và phê duyệt điều lệ hội
2.2.3. Cơ cấu tổ chức bộ máy và bồi dưỡng nghiệp vụ cho công
chức quản lý các hội quần chúng
2.2.4. Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về hội;
kiểm tra việc thực hiện điều lệ hội đối với các hội
2.2.5. Tổng kết, đánh giá tình hình hoạt động các tổ chức hội
2.3. Đánh giá kết quả quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động của
các tổ chức hội trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
2.3.1. Kết quả đạt được
Trong công tác quản lý nhà nước đối với hội quần chúng, thời
gian qua, chính quyền các cấp tỉnh Đắk Lắk đã tạo các điều kiện
thuận lợi hướng dẫn, hỗ trợ cho các cấp hội hoạt động. Công tác quản
11
lý nhà nước đối với hội đảm bảo chặt chẽ, hội được thành lập và hoạt
động theo đúng quy định tại Nghị định số 45/2010/NĐ-CP của Chính
phủ. Đối với các hội đặc thù, kinh phí hoạt động được nhà nước hỗ
trợ thông qua việc cấp theo biên chế, giao dự án, chương trình, đề tài
gắn với nhiệm vụ được nhà nước giao.
Chính vì vậy, trong những năm qua, tổ chức hội trên địa bàn tỉnh
phát triển nhanh về số lượng, đáp ứng nhu cầu tham gia sinh hoạt, hội
họp cho hội viên, các hoạt động phong trào, nhân đạo, từ thiện ngày
càng thu hút nhiều đoàn, hội viên và nhân dân tham gia hưởng ứng
và đạt được nhiều kết quả tích cực, góp phần đảm bảo các chính sách
an sinh xã hội và thực hiện các nhiệm vụ chính trị của địa phương.
2.3.2. Hạn chế
Thời gian qua, công tác quản lý nhà nước về hội của tỉnh Đắk
Lắk gặp không ít khó khăn, hạn chế và một số bất cập khi áp dụng
các quy định của Trung ương như:
Một là, việc xác định hội có tính chất đặc thù đang bất cập, cùng
một cấp hội, cùng một loại hình hoạt động nhưng có hội ở địa
phương này là hội đặc thù ở địa phương khác lại không phải là hội
đặc thù đã làm ảnh hưởng đến tư tưởng của lãnh đạo hội vì sự bất
công bằng trong việc hưởng chế độ thù lao theo quy định.
Hai là, chế độ chính sách đối với chức danh lãnh đạo hội chưa
được pháp luật quy định rõ ràng và thống nhất.
Ba là, Trung ương vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể cách thực hiện
khoán hoặc hỗ trợ kinh phí để thực hiện các nhiệm vụ được Đảng,
12
nhà nước giao của các tổ chức xã hội, xã hội - nghề nghiệp theo chủ
trương Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị.
Bốn là, công tác quản lý còn bất cập, thủ tục thành lập hội còn
rườm rà, mất nhiều thời gian. Một số hội hoạt động còn hình thức,
chưa gắn hoạt động của hội với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Năm là, công tác theo dõi, quản lý trên lĩnh vực chuyên môn của
một số Sở chuyên ngành đối với hoạt động hội chưa được coi trọng.
Sáu là, công tác theo dõi, hướng dẫn nghiệp vụ, quản lý, thanh
tra, kiểm tra hoạt động của các hội chưa được đầu tư đúng mức, chưa
có kế hoạch cụ thể hàng năm cho công tác thanh tra, kiểm tra chặt
chẽ hoạt động của các tổ chức hội.
Bảy là, đội ngũ cán bộ, công chức thực hiện công tác quản lý nhà
nước về hội còn yếu về chuyên môn nghiệp vụ, chưa đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ trong tình hình mới, chưa thật sự tâm huyết với nhiệm vụ.
2.3.3. Nguyên nhân
Để xảy ra khó khăn, bất cập nêu trên là do những nguyên nhân
sau đây:
Thứ nhất, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh việc
thành lập và hoạt động của các hội ở nước ta hiện nay còn khá ít,
chưa có luật về hội.
Thứ hai, văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh về hội chưa có
sự thống nhất, đồng bộ, thiếu quy định về chế tài xử lý khi các hội vi
phạm trong quá trình hoạt động, chưa có các quy định cụ thể về tạm
đình chỉ hoạt động, giải thể, thu hồi con dấu khi hội có mâu thuẫn nội
bộ kéo dài và không tự giải quyết được.
13
Thứ ba, một số văn bản quản lý nhà nước về hội, về chế độ, chính
sách không còn phù hợp nhưng chậm được sửa đổi, bổ sung nên các cơ
quan quản lý nhà nước và hội khó thực hiện, thiếu các chế tài xử lý hội,
hội vi phạm thì việc xử lý chưa cương quyết, còn nể nang.
Thứ tư, công tác phân cấp quản lý hội còn hạn chế, chưa cụ thể, còn
chồng chéo khiến việc quản lý hội chưa thống nhất, thiếu chặt chẽ.
Thứ năm, mối quan hệ phối hợp giữa Mặt trận Tổ Quốc và các
đoàn thể chính trị - xã hội với các hội quần chúng chưa chặt chẽ,
chưa phát huy đầy đủ vai trò nòng cốt trong các hội quần chúng.
Thứ sáu, những năm gần đây, Bộ Nội vụ không tổ chức tập huấn,
bồi dưỡng về công tác quản lý lý hội cho cán bộ, công chức địa
phương nên chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ, công chức quản lý
hội có phần hạn chế, một số công chức mới kiêm nhiệm nhiệm vụ
quản lý hội chưa có kinh nghiệm còn lúng túng trong xử lý công việc.
Thứ bảy, công tác quản lý hội vẫn còn khó khăn do số lượng hội
nhiều và ngày càng gia tăng, đội ngũ công chức ngành nội vụ ở địa
phương mỏng, nhiệm vụ chuyên môn khác nhiều nên chưa bố trí
được lực lượng chuyên trách.
Tiểu kết Chƣơng 2
14
Chƣơng 3
PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TỔ CHỨC HỘI
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK
3.1. Phƣơng hƣớng quản lý nhà nƣớc về hoạt động của các tổ
chức hội
3.1.1. Dự báo xu thế phát triển của các tổ chức hội trên địa bàn
tỉnh Đắk Lắk
Với xu thế phát triển các tổ chức hội trong giai đoạn hiện nay, có
thể nhận thấy rõ các tổ chức hội đóng vai trò vừa là trung tâm đoàn
kết, tập hợp đông đảo các lực lượng quần chúng nhân dân (tính chất
xã hội), đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của
các hội viên vừa thực hiện vai trò tổ chức động viên nhân dân thực
hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của Đảng và nhà nước.
Trong sự phát triển của tỉnh Đắk Lắk, hoạt động của các tổ chức
hội tích cực góp phần cùng nhà nước chăm lo cho công tác giáo dục
và đào tạo, làm từ thiện cứu trợ nhân đạo, giúp đỡ người nghèo, bất
hạnh, người gặp nạn trong thiên tai, dịch bệnh, chăm sóc sức khỏe
nhân dân, bảo vệ môi trường, dịch vụ tư vấn, phản biện xã hội,
nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ và góp phần xã hội hóa
trên các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao.
Do đó, với sự phát triển về số lượng các hội quần chúng ở tỉnh
Đắk Lắk qua các năm từ 2012-2016 cho thấy trong thời gian tới lực lượng
các tổ chức hội trên địa bàn tỉnh sẽ không ngừng phát triển lớn mạnh trong
15
mọi lĩnh vực đời sống xã hội; mỗi lĩnh vực hoạt động của hội sẽ được hình
thành từ cấp tỉnh đến cấp xã theo nhu cầu của xã hội.
3.1.2. Phương hướng quản lý nhà nước về hoạt động của các
tổ chức hội trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
Để thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước đối với hoạt động
của các tổ chức hội quần chúng trong thời gian tới, tỉnh Đắk Lắk cần
đề ra một số phương hướng như sau:
Một là, triển khai thực hiện nghiêm các văn bản chỉ đạo của
Đảng và văn bản pháp quy của Nhà nước về công tác quản lý tổ chức
và hoạt động của các hội quần chúng.
Hai là, đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục,
truyền thông những quy định của pháp luật liên quan đến tổ chức và
hoạt động của các hội quần chúng.
Ba là, Ủy ban nhân dân tỉnh cần chỉ đạo các sở, ban, ngành, các cấp
địa phương tăng cường sự phối hợp, nâng cao tinh thần trách nhiệm trong
việc quản lý tổ chức và hoạt động của các hội quần chúng.
Bốn là, nhanh chóng nghiên cứu, điều chỉnh, bổ sung và hoàn
thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đã ban hành theo hướng
phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. Xây dựng cơ chế phối hợp chặt
chẽ, thường xuyên và đồng bộ giữa các cấp, các ngành trong quản lý
các hội quần chúng. Quy định rõ nội dung và trách nhiệm của các cơ
quan nhà nước trong việc thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật
về hội; kiểm tra việc tuân thủ tôn chỉ, mục đích đã được phê duyệt và
16
việc quản lý và sử dụng tài sản, tài chính; giải quyết khiếu nại, tố cáo,
xử lý vi phạm pháp luật về hội.
Năm là, ngành nội vụ tỉnh Đắk Lắk cần tham mưu Ủy ban nhân
dân tỉnh chỉ đạo, tổ chức tổng kết hàng năm công tác quản lý tổ chức
và hoạt động của hội. Ngành cần đề ra những biện pháp, giải pháp cụ
thể khắc phục những tồn tại trong công tác quản lý hội những năm
tiếp theo đạt kết quả tốt nhất.
3.2. Giải pháp quản lý nhà nƣớc về hoạt động của các tổ chức
hội
3.2.1. Rà soát, ban hành các văn bản pháp luật phù hợp với điều
kiện thực tế của tỉnh trong việc quản lý nhà nước đối với hoạt động
của các tổ chức hội
Công tác rà soát văn bản pháp luật trong công tác quản lý nhà
nước là nhiệm vụ cần thiết để phát hiện các mâu thuẫn, chồng chéo
và kịp thời có đề xuất phù hợp.
Hàng năm, trên cơ sở thực tế của những vấn đề vướng mắc, phát
sinh đối với công tác quản lý nhà nước cũng như hoạt động của các
tổ chức hội tiến hành rà soát, sửa đổi, bổ sung các quyết định của Ủy
ban nhân dân tỉnh đã ban hành trước đây về công tác hội nhưng còn
bất cập hoặc không còn phù hợp cho phù hợp với tình hình mới.
3.2.2. Tăng cường vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của Ủy ban nhân dân
tỉnh Đắk Lắk.
Xây dựng và ban hành quy định về tổ chức, hoạt động của tổ
chức Đảng trong các hội nhằm tăng cường hiệu quả lãnh đạo của
17
Đảng đối với hội. Phát huy vai trò và nâng cao trách nhiệm của cấp
ủy Đảng các cấp đối với tổ chức, hoạt động của hội; lãnh đạo việc
phối hợp giữa Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội với
các hội.
3.2.3. Nâng cao nhận thức về hoạt động của các tổ chức hội
Nhà nước cần phải có sự thay đổi về cách nhìn nhận về các tổ
chức hội quần chúng là tổ chức xã hội tự nguyện, hoạt động không vì
mục đích lợi nhuận; là bộ phận ngoài khu vực nhà nước và khu vực
tư nhân. Trong mối quan hệ với nhà nước, tổ chức hội quần chúng có
vai trò rất quan trọng, đó là: giám sát các hoạt động của nhà nước, tư
vấn, phản biện các chính sách của nhà nước, thực hiện giám định xã
hội đối với việc thực thi các chính sách nhà nước, góp phần tích cực
vào công cuộc cải cách hành chính và chống tham nhũng, là cầu nối
giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.
3.2.4. Xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, ban, ngành
về quản lý nhà nước đối với hoạt động các tổ chức hộí
Trong lĩnh vực quản lý nhà nước về hoạt động của các tổ chức
hội quần chúng, việc xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cơ quan,
ban, ngành sẽ tạo điều kiện cho việc quản lý được tốt hơn; sự phối
hợp giữa các cơ quan nhà nước là cách thức để phát huy sức mạnh
tổng hợp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với các tổ
chức hội. Đặc biệt là cần phải có quy chế phối hợp giữa Ban Dân vận
Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân tỉnh nhằm tăng cường sự lãnh đạo, chỉ
đạo của Đảng và quản lý nhà nước đối với lĩnh vực quản lý hội quần
18
chúng, củng cố mối quan hệ phối hợp giữa Đảng và Nhà nước trong
quản lý hội.
3.2.5. Nâng cao hiệu quả thanh tra, kiểm tra hoạt động của các
tổ chức hội
Hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với hoạt động hội là một trong
những nội dung quan trọng để hoàn thiện công tác quản lý nhà nước
đối với các tổ chức hội. Để hoạt động này có hiệu quả, cần tập trung
các nội dung sau:
Một là, xác định rõ chức năng thanh tra, kiểm tra của nhà nước
đối với hoạt động hội. Hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với hoạt
động của các hội nhằm tạo môi trường thuận lợi, bảo đảm sự bình
đẳng. Theo đó, hoạt động thanh tra, kiểm tra không chỉ nhằm vạch ra
những khuyết điểm, thiếu sót và áp dụng các biện pháp xử lý với các
tổ chức hội mà điều quan trọng hơn là thông qua công tác thanh tra,
kiểm tra nhằm hướng dẫn, giúp đỡ các tổ chức hội hoạt động đúng
pháp luật, ngăn chặn vi phạm pháp luật.
Hai là, xác định rõ phạm vi quản lý nhà nước về thanh tra, kiểm
tra đối với hoạt động hội, kịp thời nhắc nhở, chấn chỉnh các hiện
tượng tiêu cực và xử lý các sai phạm trong hoạt động hội.
Ba là, thường xuyên đổi mới phương thức thanh tra, kiểm tra một
cách hết sức khoa học để làm sao vừa đảm bảo được mục đích, yêu
cầu thanh tra, kiểm tra, vừa có tính kết hợp, phối hợp với các cơ quan
chức năng khác để tiến hành gọn nhẹ, không trùng lắp, chồng chéo,
giảm bớt thời gian, không gây phiền hà cho các tổ chức hội.
19
Bốn là, đào tạo, lựa chọn một đội ngũ những người làm công tác
thanh tra, kiểm tra có đủ năng lực, trình độ, đáp ứng được yêu cầu
của công tác thanh tra, kiểm tra trong tình hình mới.
3.2.6. Bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ công chức quản lý các tổ
chức hội
Việc bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ công
chức làm công tác quản lý tổ chức các hội là điều cần thiết, cần được
tổ chức thường xuyên và thực chất hơn. Việc bồi dưỡng công chức
quản lý hội thông qua các hình thức: tổ chức hằng năm các lớp bồi
dưỡng chuyên môn nghiệp vụ ngắn ngày do Bộ Nội vụ tổ chức cho
đối tượng công chức cấp tỉnh và do Sở Nội vụ tổ chức cho đối tượng
công chức cấp huyện, cấp xã làm nhiệm vụ quản lý hội; tổ chức đi
nghiên cứu, học tập kinh nghiệm quản lý hội của các nước trên thế
giới hoặc của một số địa phương trong nước làm tốt công tác quản lý
hội; tổ chức tọa đàm, hội thảo về công tác quản lý hội và tuyên
truyền các văn bản pháp luật về công tác hội, từ đó giúp họ có thêm
nhiều kiến thức cần thiết phục vụ cho công việc hiện tại và tương lai.
3.2.7. Khen thưởng và xử lý vi phạm trong hoạt động của các tổ
chức hội trên địa bàn tỉnh
Để các hội hoạt động hiệu quả và có động lực phát triển, cơ quan
quản lý Nhà nước cần phải có các hình thức khen thưởng kịp thời cho
các tổ chức hoặc cá nhân hội viên nào đóng góp tích cực vào công
cuộc phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Bên cạnh đó, cũng cần có
hình thức xử lý vi phạm quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt
20
động hội để vừa mang tính răn đe, vừa ngăn ngừa tránh sự tiếp tục vi
phạm của các hội sau này.
3.3. Khuyến nghị
3.3.1. Đối với Chính phủ
Đề nghị Chính phủ sớm hoàn thiện dự thảo Luật về hội trình
Quốc hội ban hành để kịp thời đưa vào áp dụng, trong đó cần phản
ánh đúng tâm tư, nguyện vọng của nhân dân về quyền lập hội và đáp
ứng nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật đối với công tác quản lý nhà
nước về hội và Luật phải thực sự cần thiết cho sự phát triển của xã
hội; Xem xét, bỏ cơ chế hội đặc thù để tránh sự phân biệt giữa các
hội trong việc quản lý nhà nước đối với các hội nhằm tạo sự công
bằng đối với các hội; chỉ quy định việc hỗ trợ kinh phí đối với các tổ
chức hội được nhà nước giao nhiệm vụ, còn các tổ chức hội quần
chúng khác hoạt động dựa trên sự tự nguyện, tự phấn đấu để tồn tại,
phát triển.
3.3.2. Đối với Bộ Nội vụ
Sớm xây dựng và ban hành văn bản hướng dẫn chung về quản lý
các hội quần chúng làm cơ sở để các cơ quan quản lý nhà nước trên
toàn quốc thống nhất được mô hình quản lý hội thuận lợi trong quá
trình tham mưu, kiểm tra, giám sát; Tham mưu Thủ tướng Chính phủ
sớm bổ sung, chỉnh sửa Quyết định số 30/2011/QĐ-TTg ngày
01/11/2011 về chế độ thù lao đối với người đã nghỉ hưu giữ chức
danh lãnh đạo chuyên trách tại các hội có tính chất đặc thù, trong đó
cần quy định cụ thể hơn về chức danh lãnh đạo chuyên trách tại các
hội có tính chất đặc thù mà không phải là đối tượng nghỉ hưu mà là
21
đối tượng làm việc lâu năm tại hội; Hàng năm nên tổ chức ít nhất một
lần công tác bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho công chức địa
phương về lĩnh vực quản lý hội quần chúng.
3.3.3. Đối với tỉnh Đắk Lắk
Hằng năm nên tổ chức tổng kết công tác quản lý hội quần chúng
để kịp thời nắm bắt các tâm tư, nguyện vọng của các hội cũng như
kịp thời tháo gỡ các khó khăn vướng mắc của các hội và công tác
quản lý hội theo thẩm quyền; tổ chức tuyên dương, khen thưởng đối
với các cơ quan, cá nhân thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về
lĩnh vực hội, đồng thời tuyên dương, khen thưởng đối với các tổ chức
hội và cá nhân hội viên có thành tích trong công cuộc góp phần phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh; Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ
biến nâng cao nhận thức về công tác quản lý hội cho các cơ quan,
ban, ngành, địa phương; Hỗ trợ kinh phí để thực hiện công tác bồi
dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cong chức làm
công tác quản lý hội quần chúng trên địa bàn tỉnh.
Tiểu kết chƣơng 3
22
KẾT LUẬN
Tổ chức xã hội là một trong những phương thức tổ chức đời sống
xã hội cần thiết, hợp lý trong lĩnh vực “phi nhà nước”, nhằm phát huy
tính năng động, sáng tạo, tự giác, tự quản của người dân, cộng đồng
dân cư, đồng thời góp phần tạo ra sự cân bằng giữa nhà nước và cá
nhân, các cộng đồng dân cư.
Trong
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_van_quan_ly_nha_nuoc_ve_hoat_dong_cua_cac_to_ch.pdf